Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 30 Thường niên năm C (23/10/2022) - Đi lên và đi xuống
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về dụ ngôn với hai nhân vật chính: người Pharisêu và người thu thuế (x. Lc 18,9-14), một người sùng đạo và một người tội lỗi. Cả hai cùng lên đền thờ cầu nguyện, nhưng chỉ có người thu thuế mới thực sự tiến lên với Thiên Chúa, bởi vì với sự khiêm hạ, anh chân thành nhìn vào bản thân và thấy mình như mình là với sự khốn khổ của bản thân, anh không mang mặt nạ khi đến gặp Chúa. Do đó, chúng ta có thể nói rằng dụ ngôn nằm giữa hai chuyển động, được diễn tả bằng hai động từ: đi lên và đi xuống.
Chuyển động đầu tiên là đi lên. Thực tế, bản văn bắt đầu bằng câu: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện” (câu 10). Khía cạnh này gợi lại nhiều tình tiết trong Kinh thánh, để gặp gỡ Thiên Chúa, con người cần leo lên ngọn núi để gặp gỡ Thiên Chúa: Ápraham đã lên núi để dâng của lễ; Môsê lên núi Sinai để nhận mười điều răn; Chúa Giêsu lên núi, nơi Người hiển dung. Vì vậy, hành động lên núi diễn tả lòng khao khát muốn vượt ra khỏi cuộc sống bình bình để đi gặp gỡ Thiên Chúa; vượt ra khỏi sự đều đều của bản thân để hướng đến Thiên Chúa; vượt ra khỏi cái tôi của chính mình, để gói ghém tất cả những gì chúng ta đang sống và dâng chúng lên trước Thiên Chúa. Đây chính là chuyển động đi lên, khi chúng ta cầu nguyện nghĩa là chúng ta đang đi lên gặp gỡ Thiên Chúa.
Nhưng một trải nghiệm về cuộc gặp gỡ với Người, để được biến đổi qua lời cầu nguyện và để hướng mình về Thiên Chúa, chúng ta cần đến chuyển động thứ hai: đi xuống. Đi xuống nghĩa là gì? Để đi về phía Người, chúng ta cần biết đi xuống, đi vào trong chính mình, nuôi dưỡng sự chân thành và lòng khiêm tốn, điều này giúp chúng ta có được góc nhìn chân thực về sự mỏng manh và nghèo khó nội tâm của mình. Trên thực tế, với sự khiêm nhường, chúng ta có khả năng dâng lên cho Thiên Chúa, một cách chân thành không giả dối, tất cả những gì chúng ta có, những giới hạn và thương tổn, tội lỗi và đau khổ vốn đang đè nặng lên tâm hồn chúng ta, và khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa để Người chữa lành, phục hồi và nâng chúng ta lên. Chính Người là Đấng nâng chúng ta lên, không phải tự chúng ta. Chúng ta càng hạ mình xuống với sự khiêm nhường, thì Thiên Chúa càng nâng chúng ta lên.
Thật vậy, người thu thuế trong dụ ngôn, anh khiêm tốn đứng xa xa (câu 13), không dám đến gần, anh xấu hổ, xin sự tha thứ, và Thiên Chúa nâng anh lên. Trái lại, người Pharisêu tự nâng mình lên, một người tự cao, yên trí rằng mình hoàn hảo: đứng ở đó, anh bắt đầu nói với Chúa về chính mình, ngợi ca chính mình, liệt kê tất cả những việc tốt đã làm, và anh xem thường người khác, “con không giống người kia”. Đây chính là sự kiêu ngạo thiêng liêng. “Nhưng tại sao chúng ta lại nói về sự kiêu ngạo thiêng liêng?”, bởi vì tất cả chúng ta có nguy cơ rơi vào điều này. Nó khiến chúng ta tin rằng mình hoàn hảo và bắt đầu xét đoán người khác. Dấu hiệu của sự kiêu ngạo thiêng liêng này là: “tôi thấy mình rất tốt, tốt hơn những người khác ở điều này, điều này và những điều khác nữa. Do đó, nếu không cẩn trọng, chúng ta đang tôn thờ chính mình và rũ bỏ Thiên Chúa. Nó là việc chúng ta đang xoay quanh chính mình. Lời cầu nguyện như này không có sự khiêm nhường.
Anh chị em thân mến, người Pharisêu và người thu thuế liên quan chặt chẽ đến chúng ta. Nghĩ đến họ, chúng ta cùng nhìn lại chính mình và hãy kiểm chứng xem chúng ta có đang như người Pharisêu, đang “tự hào mình là người công chính” (câu 9) và khiến chúng ta xem thường người khác hay không. Điều này có thể xảy ra khi chúng ta tìm kiếm những lời tán dương, luôn liệt kê những công trạng và việc tốt của mình, khi chúng ta bận tâm mỗi khi xuất hiện, về vẻ bề ngoài hơn là sự hiện hữu, khi chúng ta để cho mình bị mắc kẹt vào tính tự ngưỡng mộ mình và chủ nghĩa phô trương. Chúng ta hãy đề phòng tính tự ngưỡng mộ mình và chủ nghĩa phô trương, vốn đặt nền trên sự hư danh, chúng làm cho chúng ta là những Kitô hữu, những linh mục, những giám mục luôn đề cập đến từ “Tôi” trên môi miệng: “Tôi đã làm điều này, tôi đã viết điều này, tôi đã nói điều này, tôi đã hiểu việc đó nhanh hơn mọi người”, và cứ tiếp tục như vậy. Ở đâu cái tôi càng lớn, ở đó Chúa càng nhỏ. Ở đây, những người này, họ được gọi là: “tôi-với-tôi-cho-tôi và chỉ-cho-tôi”. Có một lần, người ta nói về một vị linh mục, người đã xem mình là trung trâm, họ nói đùa rằng: "Khi cha ấy xông hương, cha đang làm ngược lại bởi cha tự xông hương cho chính mình".
Chúng ta hãy nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ là hình ảnh sống động về những gì Thiên Chúa mong muốn thực thi qua việc hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (x. Lc 1,52).
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 30 Thường niên năm C, Bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục về Amazon (27/10/2019) - Ba lời cầu nguyện
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta học cách cầu nguyện qua hình ảnh của ba nhân vật: người Pharisêu và người thu thuế trong dụ ngôn của Chúa Giêsu và người nghèo trong bài đọc thứ nhất.
Lời cầu nguyện của người Pharisêu bắt đầu như sau: “Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Chúa” (Lc 18,11). Đây là một khởi đầu tuyệt vời, bởi vì lời cầu nguyện tốt đẹp nhất chính là lời tạ ơn và ca ngợi. Tuy nhiên, ngay sau đó, chúng ta thấy lý do khiến ông tạ ơn, đó là: “vì con không như bao kẻ khác” (Lc 18,11). Ông còn giải thích lý do ấy: ông ăn chay hai lần mỗi tuần, trong khi luật thời đó chỉ buộc ăn chay mỗi năm một lần; ông nộp thuế thập phân trên mọi thứ mình có, dù luật chỉ buộc đối với những sản phẩm quan trọng nhất (x. Đnl 14,22tt). Tóm lại, ông tự hào vì đã chu toàn các điều răn cách hoàn hảo nhất có thể. Nhưng ông lại quên điều răn trọng nhất: mến Chúa và yêu người (x. Mt 22,36-40). Vì quá tự mãn về khả năng của mình trong việc giữ luật, về công trạng và nhân đức của bản thân, ông chỉ chăm chú nhìn vào chính mình. Bi kịch của ông là ông không có tình yêu. Ngay cả những việc tốt nhất, nếu thiếu tình yêu, cũng không có giá trị gì, như Thánh Phaolô đã nói (x. 1 Cr 13). Và khi thiếu tình yêu, điều gì sẽ xảy ra? Ông kết thúc bằng việc ca ngợi chính mình thay vì cầu nguyện với Thiên Chúa. Thật vậy, ông chẳng xin gì với Chúa, vì ông không cảm thấy mình cần ơn Chúa hay mắc nợ Chúa, trái lại, ông cho rằng Thiên Chúa mắc nợ ông. Ông đứng trong đền thờ Thiên Chúa, nhưng lại thờ một vị thần khác, đó là chính bản thân mình, là cái tôi. Và thật đáng buồn, ngày nay vẫn có nhiều nhóm ‘danh giá’, nhiều ‘Kitô hữu Công giáo’, đang bước đi trên con đường đó.
Cùng với việc quên Thiên Chúa, người Pharisêu cũng quên tha nhân. Thật vậy, ông khinh miệt họ. Đối với người Pharisêu, tha nhân chẳng có giá trị gì, không đáng kể gì. Ông cho rằng mình vượt trội hơn người khác, những người mà ông gọi cách rõ ràng là “những kẻ còn lại, phần thừa” (tiếng Hy Lạp: loipoi, Lc 18,11). Nghĩa là, họ chỉ là những kẻ dư thừa, những thứ bỏ đi cần phải tránh xa. Biết bao lần chúng ta chứng kiến cảnh tượng này lặp đi lặp lại trong đời sống và trong lịch sử! Biết bao lần những người có địa vị cao, giống như người Pharisêu đối với người thu thuế, dựng lên những bức tường để gia tăng khoảng cách, khiến những người khác cảm thấy bị loại trừ hơn nữa. Hoặc coi thường họ là lạc hậu, vô giá trị, rồi khinh bỉ truyền thống của họ, xóa bỏ lịch sử của họ, chiếm đất của họ và chiếm đoạt tài sản của họ. Biết bao kẻ “tự cho mình là hơn người” đã biến thành kẻ áp bức và bóc lột — và điều ấy vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay! Chúng ta đã thấy điều này trong Thượng Hội đồng, khi nói đến việc khai thác thiên nhiên, con người và cư dân vùng Amazon, cũng như nạn buôn người và mua bán thân xác con người. Những sai lầm của quá khứ dường như vẫn chưa đủ để ngăn chặn việc cướp bóc người khác và gây thương tích cho anh chị em mình, cũng như cho chính “người chị em Trái đất”. Chúng ta đã thấy điều đó nơi gương mặt bị tổn thương của vùng Amazon. Việc tôn thờ bản thân vẫn tiếp diễn cách giả hình, với những nghi thức và “lời cầu nguyện” - nhiều người tự xưng là Công giáo, tuyên xưng mình là Kitô hữu, nhưng đã quên rằng họ là người Kitô hữu và là con người. Họ đã quên việc thờ phượng đích thực dành cho Thiên Chúa, vốn luôn được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân. Ngay cả những Kitô hữu cầu nguyện và tham dự Thánh lễ Chúa nhật cũng có thể rơi vào “việc tôn thờ chính mình” này. Vì thế, chúng ta hãy xét mình, để xem liệu chính chúng ta có đang nghĩ rằng ai đó là thấp kém hơn mình, đáng bị gạt bỏ, dù chỉ là trong lời nói, hay không? Chúng ta hãy cầu xin ơn Chúa, để không tự cho mình là vượt trội, không nghĩ rằng mình hoàn hảo, không trở nên cay độc hay khinh miệt người khác. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu chữa lành chúng ta khỏi thói xấu nói hành, than phiền, và khinh bỉ người khác – vốn là những điều làm mất lòng Thiên Chúa. Và thật là ý nghĩa sâu sắc, khi hôm nay trong Thánh lễ này, chúng ta được đồng hành không chỉ với những người bản địa vùng Amazon, mà còn với những người nghèo nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta: những anh chị em khuyết tật thuộc Cộng đoàn L’Arche. Họ hiện diện giữa chúng ta, ở hàng ghế đầu tiên.
Giờ đây, chúng ta hãy hướng sang lời cầu nguyện thứ hai. Lời cầu nguyện của người thu thuế giúp chúng ta hiểu điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Người thu thuế không khởi đầu từ công trạng của mình, nhưng từ những thiếu sót của mình; không bắt đầu từ sự giàu có, nhưng từ cảnh nghèo hèn của bản thân. Dĩ nhiên, đó không phải là sự nghèo túng vật chất - vì các người thu thuế thời bấy giờ thường giàu có, thậm chí làm giàu cách bất chính trên lưng đồng bào của mình - nhưng ông cảm thấy mình nghèo nàn về sự sống, bởi lẽ sống trong tội lỗi thì không bao giờ là sống hạnh phúc cả. Người thu thuế, kẻ đã từng bóc lột người khác, nay nhận ra mình là người nghèo hèn trước mặt Thiên Chúa, và Chúa đã lắng nghe lời cầu nguyện của ông - một lời cầu nguyện chỉ vỏn vẹn bảy từ, nhưng tràn đầy sự chân thành phát xuất từ con tim. Thật vậy, trong khi người Pharisêu đứng thẳng, ở phía trước (x. Lc 18,11), thì người thu thuế đứng ở đàng xa, và “không dám ngước mắt lên trời”, vì ông biết Thiên Chúa thật vĩ đại, còn mình thì thật nhỏ bé. Ông đấm ngực (x. Lc 18,13), bởi vì ngực là nơi của trái tim. Lời cầu nguyện của ông phát sinh trực tiếp từ con tim; một lời cầu nguyện trong sáng, ông đặt trọn con tim mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài. Cầu nguyện là đứng trước ánh nhìn của Thiên Chúa - khi tôi cầu nguyện, là chính Thiên Chúa đang nhìn tôi - không ảo tưởng, không biện minh, không ngụy tạo. Nhiều khi, những lời “thống hối” chất chứa đầy sự tự biện minh của chúng ta thật sự mắc cười, bởi lẽ thay vì thú nhận tội lỗi, chúng ta như đang tự phong thánh cho mình. Thật vậy, bóng tối và sự dối trá xuất phát từ ma quỷ - đó chính là những lời tự biện minh của chúng ta; còn ánh sáng và chân lý đến từ Thiên Chúa, là sự soi sáng của con tim. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, và tôi rất biết ơn, các thành viên thân mến của Thượng Hội đồng, vì trong những tuần qua, chúng ta đã có thể nói chuyện với nhau bằng con tim, với sự chân thành và thẳng thắn, và đặt mọi nỗ lực cũng như niềm hy vọng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em mình.
Hôm nay, khi chiêm ngắm người thu thuế, chúng ta khám phá lại điểm khởi đầu của hành trình thiêng liêng: đó là xác tín rằng tất cả chúng ta đều cần được cứu độ. Đây chính là bước đầu tiên của việc thờ phượng Thiên Chúa cách chân thật, vị Thiên Chúa hằng thương xót những ai nhận ra thân phận cần được xót thương. Ngược lại, cội rễ của mọi sai lầm thiêng liêng, như các ẩn sĩ thời xưa đã dạy, chính là nghĩ rằng mình là người công chính. Khi coi mình là công chính, ta đặt Thiên Chúa - Đấng Công chính duy nhất - ra bên ngoài. Thái độ khởi đầu này quan trọng đến nỗi Chúa Giêsu minh họa cho chúng ta bằng một so sánh đặc biệt: Ngài đặt người Pharisêu, hình ảnh đạo đức và sùng kính nhất thời bấy giờ, bên cạnh người thu thuế, kẻ tội lỗi mà ai cũng biết. Và phán quyết bị đảo ngược: người “tốt lành” nhưng kiêu căng tự mãn thì thất bại, còn người “tội lỗi nặng nề” nhưng khiêm tốn lại được Thiên Chúa nâng lên. Nếu thành thật nhìn lại chính mình, chúng ta sẽ thấy trong mỗi người đều có cả người thu thuế và người Pharisêu. Chúng ta hơi giống người thu thuế, vì chúng ta là tội nhân; nhưng cũng hơi giống người Pharisêu, vì chúng ta tự phụ, thành thạo trong việc biện minh cho bản thân mình, lão luyện trong “nghệ thuật tự biện minh”. Những mánh lới ấy có thể hiệu quả trong việc lừa gạt chính mình, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, những mánh lới tự biện ấy không hề có tác dụng. Vì thế, chúng ta hãy cầu xin ơn Chúa, để cảm nghiệm sâu xa rằng mình cần đến lòng thương xót, để trở nên nghèo hèn trong tâm hồn. Chính vì thế, thật là tốt khi chúng ta sống gần gũi với người nghèo, để nhắc mình nhớ rằng chính ta cũng là người nghèo, và rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ hoạt động trong bầu khí của sự nghèo khó nội tâm.
Giờ đây, chúng ta đến với lời cầu nguyện của người nghèo, được trình bày trong bài đọc thứ nhất. Sách Huấn Ca nói rằng: “Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” (Hc 35,21). Trong khi lời cầu nguyện của những kẻ tự cho mình là công chính vẫn bị giữ lại nơi mặt đất, bị sức hút của chủ nghĩa vị kỷ đè nặng, thì lời cầu nguyện của người nghèo vươn thẳng lên Thiên Chúa. Cảm thức đức tin (sensus fidei) của Dân Thiên Chúa đã nhận ra nơi người nghèo “những người canh giữ cửa Thiên đàng” - một cảm thức đức tin mà người Pharisêu đã thiếu trong lời cầu của mình. Chính họ sẽ là những người mở rộng hay khép lại cánh cửa của sự sống đời đời. Họ không phải là những người có địa vị trong đời này, không đặt mình trên người khác; họ chỉ có một kho tàng duy nhất, đó là: Thiên Chúa. Những con người ấy là biểu tượng sống động của lời ngôn sứ Kitô giáo.
Trong Thượng Hội đồng này, chúng ta đã được diễm phúc lắng nghe tiếng nói của những người nghèo, và cùng nhau suy tư về sự bấp bênh trong đời sống của họ, một cuộc sống bị đe dọa bởi những mô hình phát triển mang tính khai thác tàn phá. Thế nhưng, ngay giữa hoàn cảnh ấy, nhiều người đã làm chứng cho chúng ta rằng vẫn có thể nhìn nhận thực tại bằng một ánh mắt khác - biết đón nhận thế giới bằng vòng tay rộng mở, như một hồng ân, và biết trân trọng công trình tạo dựng, không như một nguồn tài nguyên để khai thác, nhưng như ngôi nhà chung cần được bảo vệ, với niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Người là Cha của chúng ta, và như sách Huấn ca nói thêm: “Người lắng nghe lời cầu nguyện của kẻ bị áp bức” (Hc 35,16). Biết bao lần, ngay cả trong lòng Giáo hội, tiếng nói của người nghèo đã không được lắng nghe; thậm chí đã bị nhạo báng hoặc bị làm cho im tiếng, bởi vì tiếng nói ấy gây khó chịu, làm phiền lòng. Chúng ta hãy cầu xin ơn biết lắng nghe tiếng kêu của người nghèo - vì đó chính là tiếng kêu hy vọng của Giáo hội. Tiếng kêu của người nghèo là tiếng kêu hy vọng của Giáo hội. Và khi chúng ta biến tiếng kêu ấy thành tiếng kêu của chính mình, chúng ta có thể chắc chắn rằng, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ vươn lên tận mây trời.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 30 Thường niên năm C (23/10/2016) - Lòng can đảm
Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt lành!
Bài đọc II trong Phụng vụ hôm nay trình bày với chúng ta lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô gửi cho người môn đệ yêu dấu và cộng sự viên của ngài là Timôthê, trong đó ngài hồi tưởng lại cuộc đời của mình như một Tông đồ hoàn toàn hiến dâng cho sứ vụ (x. 2 Tm 4,6-8.16-18). Giờ đây, khi nhìn thấy chặng đường trần thế của mình sắp đi đến hồi kết, thánh nhân mô tả cuộc đời mình qua ba thời điểm: hiện tại, quá khứ và tương lai. Ngài giải thích hiện tại với hình ảnh hy lễ: “Tôi sắp đổ máu ra làm lễ tế” (c.6). Với quá khứ thánh nhân chỉ cho thấy cuộc đời đã sống với các hình ảnh của “trận chiến đấu tốt” và “cuộc chạy đua” của một người trung thực với các dấn thân và trách nhiệm của mình (c.7), và đối với tương lai ngài tín thác cho sự thừa nhận của Thiên Chúa, là thẩm phán “công bằng” (c.8).
Nhưng sứ mệnh của Thánh Phaolô được hữu hiệu, đúng đắn và trung thành chỉ nhờ sự gần gũi và sức mạnh của Chúa, là Đấng đã làm cho ngài trở thành một người loan báo Tin mừng cho tất cả các dân tộc. Thánh nhân nói: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh và đã ban sức mạnh cho tôi, để tôi có thể hoàn thành việc loan báo Tin Mừng và để tất cả mọi người được lắng nghe Tin Mừng” (c. 17).
Trong trình thuật này của Thánh Phaolô phản ánh Giáo Hội, đặc biệt hôm nay là ngày Quốc tế Truyền giáo có đề tài là “Giáo hội truyền giáo, chứng nhân của lòng thương xót”. Nơi thánh Phaolô cộng đoàn kitô tìm thấy mẫu gương của mình trong xác tín rằng chính sự hiện diện của Chúa khiến cho công tác tông đồ và công việc rao giảng Tin mừng được hữu hiệu. Kinh nghiệm của Tông Đồ dân ngoại nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta phải dấn thân trong các hoạt động mục vụ và truyền giáo, một đàng như kết quả tùy thuộc nơi các cố gắng của chúng ta với tinh thần hy sinh của lực sĩ không dừng lại cả trước các thất bại; nhưng đàng khác biết rằng sự thành công đích thực trong sứ mệnh của chúng ta là món quà của Ơn Thánh: Chính Chúa Thánh Thần khiến cho việc truyền giáo của Giáo hội trong thế giới được hữu hiệu.
Ngày nay là thời của việc truyền giáo và thời của lòng can đảm! Can đảm củng cố các bước chân chao đảo, can đảm lấy lại khẩu vị của việc tiêu hao cho Tin mừng, tái chiếm lại sự tin tưởng nơi sức mạnh, mà việc truyền giáo có trong chính nó. Đây là thời can đảm, cả khi can đảm không có nghĩa là có bảo đảm và thành công. Chúng ta được đỏi hỏi có can đảm để chiến đấu, không nhất thiết để chiến thắng; để loan báo, không nhất thiết để hoán cải. Chúng ta được đòi hỏi có can đảm để là các giải pháp khác cho thế giới, nhưng không trở thành tranh cãi hay hiếu chiến. Chúng ta được đòi hỏi có can đảm rộng mở cho tất cả mọi người, mà không bao giờ giảm thiểu sự tuyệt đối và tính cách duy nhất của Chúa Kitô, là Đấng cứu độ duy nhất của tất cả mọi người. Chúng ta được đòi hỏi có can đảm để kháng cự lại sư nghi ngờ, mà không trở thành ngạo mạn. Chúng ta cũng được đỏi hỏi có lòng can đảm của người thu thuế trong Tin mừng hôm nay, khiêm tốn không dám hướng mắt lên trời, nhưng đấm ngực nói: “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Hôm nay là thời điểm của lòng can đảm! Ngày nay cần lòng can đảm!
Xin Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của Giáo hội “đi ra” và ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta tất cả là môn đệ truyền giáo, nhờ sức mạnh Bí tích Rửa Tội của chúng ta, để đem sứ điệp cứu rỗi tới cho toàn gia đình nhân loại.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 30 Thường niên năm C (27/10/2013) - Gia đình cầu nguyện, bảo tồn đức tin và sống niềm vui
Anh chị em thân mến,
Các bài đọc chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về một vài đặc tính cơ bản của gia đình Kitô.
Thứ I: Gia đình cầu nguyện. Đoạn sách Tin mừng làm nổi bật hai cách thức cầu nguyện, một cách sai lầm như người biệt phái - và một cách đúng đắn là cách của người thu thuế. Người biệt phái là hiện thân của một thái độ không biểu lộ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì những ơn lành và lòng từ bi của Ngài, nhưng đúng hơn tỏ ra tự mãn. Người biệt phải cảm thấy mình là người công chính, thấy mình hoàn hảo, và hãnh diện đoán xét người khác từ trên bệ cao của mình. Trái lại, người thu thuế không nói nhiều lời. Kinh nguyện của ông là một sự điều độ khiêm tốn, ý thức về sự bất xứng và tình trạng lầm than của mình: người ấy nhìn nhìn nhận mình cần ơn tha thứ và lòng từ bi của Thiên Chúa.
Kinh nguyện của người thu thuế là kinh nguyện của người nghèo, và là kinh nguyện làm hài lòng Thiên Chúa, như bài đọc thứ I đã nói, kinh nguyện ấy “bay tới mây trời” (Hc 35,20), trong khi kinh nguyện của người biệt phái nặng nề vì những kiêu căng thừa thãi.
Hỡi các gia đình thân mến, dưới ánh sáng Lời Chúa, tôi muốn hỏi anh chị em: thỉnh thoảng anh chị em có cầu nguyện trong gia đình không? Tôi biết một số gia đình có cầu nguyện chung. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi: mà làm sao cầu nguyện chung? Vì dường như kinh nguyện là chuyện cá nhân, vả lại chả bao giờ có lúc thuận thiện, yên tĩnh… Đúng thế, nhưng vấn đề ở đây là khiêm tốn, nhìn nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, giống như người biệt phái! và cần có sự đơn sơ! Cùng nhau đọc kinh ”Lạy Cha” quanh bàn ăn, ta có thể làm được. Và cầu nguyện chung với kinh Mân côi trong gia đình, đó là điều thật đẹp và mang lại bao nhiêu sức mạnh! Và cầu nguyện cho nhau! Chồng cầu cho vợ, vợ cầu cho chồng, cả hai cầu cho con cái, và con cái cầu cho cha mẹ, ông bà. Cầu nguyện cho nhau, đó là cầu nguyện trong gia đình, và điều làm cho gia đình mạnh mẽ chính là lời cầu nguyện.
Bài đọc thứ hai gợi cho chúng ta một điểm khác nữa: Gia đình gìn giữ đức tin. Thánh Phaolô Tông Đồ, vào cuối đời, đã làm một bản kết toán cơ bản: ”Tôi đã bảo tồn đức tin” (2 Tm 4,7). Nhưng làm sao bảo tồn đức tin? Không phải trong một tủ sắt! Không phải chôn vùi đức tin dưới đất, như người đầy tớ lười biếng. Thánh Phaolô so sánh cuộc sống của ngài với một cuộc trận chiến và một cuộc chạy đua. Ngài đã bảo tồn đức tin vì ngài không phải chỉ thu hẹp vào việc bảo vệ đức tin, nhưng loan báo, chiếu tỏa và đưa đức tin đi xa. Ngài quyết liệt chống lại những người muốn bảo tồn, “tẩm liệm” đóng khung sứ điệp của Chúa Kitô trong biên cương Palestine. Vì thế, thánh nhân đã thực hiện những chọn lựa can đảm, đi tới những lãnh thổ đố kỵ, để cho mình bị những người xa xăm, những nền văn hóa khác, khiêu khích, ngài đã rao giảng một cách thẳng thắn không sợ hãi. Thánh Phaolô đã bảo tồn đức tin vì, như ngài đã nhận lãnh, đã trao ban, đẩy mình tới những vùng ngoại biên, không bám vào những vị trí tự vệ.
Ở đây chúng ta cũng có thể tự hỏi: chúng ta có thể giữ gìn đức tin như thế nào? Phải chăng chúng ta giữ đức tin cho mình, trong gia đình chúng ta, như một tư sản, hay chúng ta biết chia sẻ đức tin bằng chứng tá, bằng sự tiếp đón, cởi mở đối với tha nhân? Tất cả chúng ta biết rằng các gia đình, nhất là những gia đình trẻ, thường ”chạy”, quá nhiều công việc; nhưng đôi khi anh chị em có nghĩ rằng sự chạy đi vậy có thể cũng là một cuộc chạy đua đức tin? Các gia đình Kitô là những gia đình thừa sai, trong đời sống hằng ngày, làm những công việc hằng ngày, đặt muối và men đức tin trong mọi sự!
Một khía cạnh chúng ta rút được từ Lời Chúa, đó là gia đình sống niềm vui. Trong thánh vịnh đáp ca có thành ngữ này: “Những người nghèo hãy lắng nghe và vui mừng” (33/34,3). Trọn thánh vịnh này là một bài ca chúc tụng Chúa là nguồn mạch vui mừng và an bình. Đâu là lý do để vui mừng? Thưa đó là: Chúa ở gần, Ngài lắng nghe tiếng kêu của những người khiêm hạ và giải thoát họ khỏi sự ác. Thánh Phaolô cũng viết: ”Anh chị em hãy luôn vui tươi… Chúa đang ở gần!” (Pl 4,4-5). Hôm nay tôi muốn hỏi mỗi người trong anh chị em, như một bài tập cần làm: ở nhà có niềm vui không? Niềm vui trong gia đình bạn như thế nào? Mỗi người hãy tự trả lời!
Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em biết rõ điều này: niềm vui chân thực mà ta nếm hưởng trong gia đình không phải là một cái gì hời hợt, không đến từ sự vật, từ những hoàn cảnh thuận tiện.. Niềm vui chân thực đến từ một sự hòa hợp sâu xa giữa con ngừơi, mà mọi người đều cảm thấy trong tâm hồn, nâng đỡ nhau trên con đường đời. Nhưng ở căn cội tâm tình vui mừng sâu xa ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, có tình thương đón tiếp, của Ngài, tình yêu từ bi, tôn trọng mọi người. Và nhất là một tình yêu kiên nhẫn: kiên nhẫn là một đức tính của Thiên Chúa và Chúa dạy rằng trong gia đình phải có tình yêu kiên nhẫn như thế, mỗi người đối với nhau. Chỉ mình Thiên Chúa biết kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Nếu thiếu tình thương của Thiên Chúa, thì cả gia đình cũng mất đi sự hòa hợp, và thái độ duy cá nhân chủ nghĩa sẽ trổi vượt, và niềm vui bị tắt lịm. Trái lại, gia đình nào sống niềm vui đức tin thì tự nhiên cũng thông truyền, là muối đất và là ánh sáng thế gian, là men cho xã hội.
Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em hãy luôn sống với niềm tin và với tinh thần đơn sơ, như Thánh gia Nazareth. Ước gì niềm vui và an bình của Chúa luôn ở cùng anh chị em!
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 30 Thường niên năm C, Bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục về Trung Đông (24/10/2010) - Xin cho tất cả nên một
Thưa Anh em Giám mục khả kính,
Quý vị đáng kính,
Anh chị em thân mến,
Hai tuần sau buổi khai mạc, hôm nay chúng ta quy tụ một lần nữa vào ngày của Chúa, nơi Bàn Thờ Tuyên Xưng Đức Tin trong Đền thờ Thánh Phêrô, để kết thúc Đại hội Đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục về Trung Đông. Trong tâm hồn chúng ta dâng lên lời tạ ơn sâu xa hướng về Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta một kinh nghiệm thực sự phi thường, không chỉ cho riêng chúng ta, mà còn vì ích chung của Giáo hội, cho Dân Thiên Chúa đang sống trên những miền đất trải dài giữa Địa Trung Hải và vùng Lưỡng Hà. Với tư cách là Giám mục Rôma, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới anh em là các Nghị phụ Thượng đáng kính của Thượng Hội đồng: các Đức Hồng y, các vị Thượng phụ, các Tổng Giám mục và các Giám mục. Tôi đặc biệt cám ơn Tổng Thư ký, bốn vị Chủ tịch đại diện, vị Tường trình viên chính, vị Thư ký đặc biệt cùng tất cả các cộng tác viên, những người đã làm việc không mệt mỏi trong những ngày qua. Sáng nay, chúng ta đã rời Hội trường Thượng Hội đồng để đến “Đền Thờ để cầu nguyện”; và trong hành động này, chúng ta được lời Tin mừng chạm tới cách sâu xa, qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế, do Chúa Giêsu kể lại và Thánh Luca ghi chép (x. Lc 18,9–14). Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ như người Pharisiêu, muốn kể lể với Thiên Chúa về những công đức của mình, có lẽ là về công việc mà chúng ta đã thực hiện trong những ngày này. Tuy nhiên, để lời cầu nguyện được bay lên tới trời, nó phải phát xuất từ một con tim nghèo khó và khiêm nhường. Vì thế, khi kết thúc sự kiện giáo hội này, chúng ta trước hết và trên hết dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, không phải vì công trạng của chúng ta, mà vì ân huệ Người đã ban tặng chúng ta. Chúng ta nhận biết chính mình nhỏ bé và cần đến ơn cứu độ, cần đến lòng thương xót, và chúng ta nhận ra rằng mọi sự đều đến từ Thiên Chúa, và chỉ nhờ ân sủng của Người, chúng ta mới có thể thực hiện điều mà Chúa Thánh Thần đã tỏ cho chúng ta. Chỉ trong cách đó, chúng ta mới có thể “trở về nhà” thực sự được làm phong phú hơn, được công chính hơn, và có thể bước đi trên đường của Thiên Chúa hơn.
Bài đọc I và Thánh vịnh Đáp ca đều nhấn mạnh chủ đề của cầu nguyện, cho thấy rằng lời cầu nguyện càng có sức mạnh chạm đến trái tim của Thiên Chúa hơn khi người cầu nguyện đang ở trong cảnh túng thiếu và bị đau khổ. Sách Huấn Ca khẳng định: “Lời cầu nguyện của người khiêm nhường xuyên thấu tầng mây” (Hc 35,21), và Vịnh gia nói thêm: “Đức Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, Người cứu giúp những tâm hồn thất vọng ê chề” (Tv 34,18). Tâm trí chúng ta hướng về biết bao anh chị em đang sống tại vùng Trung Đông, những người đang phải đối diện với nhiều hoàn cảnh thử thách, đôi khi vô cùng nặng nề, không chỉ vì thiếu thốn vật chất, mà còn vì sự nản lòng, tình trạng căng thẳng, và đôi khi cả nỗi sợ hãi. Hôm nay, Lời Chúa cũng mang đến cho chúng ta ánh sáng của niềm hy vọng an ủi, khi trình bày lời cầu nguyện được nhân cách hoá rằng: “Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35,21–22). Mối liên hệ giữa cầu nguyện và công lý này cũng khiến chúng ta suy nghĩ về nhiều thực trạng trong thế giới hôm nay, đặc biệt là tại Trung Đông. Tiếng kêu của người nghèo và người bị áp bức luôn được Thiên Chúa lắng nghe tức khắc, vì Người muốn can thiệp, để mở ra con đường giải thoát để phục hồi tương lai của tự do, một chân trời của niềm hy vọng.
Niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng gần gũi và giải thoát bạn hữu của Người, chính là điều mà Thánh Tông đồ Phaolô làm chứng trong Bài đọc II hôm nay, trích Thư thứ hai gửi ông Timôthê. Khi nhận thấy rằng đoạn cuối của đời mình nơi trần thế đang đến gần, Thánh Phaolô đã đưa ra một nhận định: “Tôi đã chiến đấu trong trận chiến cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7). Đối với mỗi người chúng ta, anh em Giám mục thân mến, đây là một mẫu gương đáng bắt chước: xin lòng nhân lành của Thiên Chúa cho phép chúng ta cũng có thể nói điều tương tự về chính mình! Thánh Phaolô tiếp tục: “Chúa đã đứng bên tôi và ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà lời rao giảng được hoàn tất, và muôn dân được nghe biết Tin mừng” (2 Tm 4,17). Đây là lời vang lên cách mạnh mẽ trong Chúa nhật này, khi chúng ta cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo! Hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, làm chứng cho tình yêu của Người. Kinh nghiệm của vị Tông đồ là mẫu gương cho mọi Kitô hữu, đặc biệt cho chúng ta là những Mục tử. Chúng ta đã cùng nhau sống một khoảnh khắc sâu sắc của hiệp thông Giáo hội. Giờ đây, chúng ta chia tay nhau để mỗi người trở về với sứ vụ của mình, nhưng chúng ta biết rằng chúng ta vẫn hiệp nhất, chúng ta vẫn ở lại trong tình yêu của Người.
Đại hội Thượng Hội đồng kết thúc hôm nay, luôn ghi khắc trong tâm trí hình ảnh của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, được sách Công vụ Tông đồ mô tả: “Toàn thể cộng đoàn tín hữu chỉ có một lòng một ý” (Cv 4,32). Chính thực tại ấy chúng ta đã kinh nghiệm trong những ngày qua, khi cùng nhau chia sẻ niềm vui và nỗi khổ đau, những ưu tư và hy vọng của các Kitô hữu tại Trung Đông. Chúng ta đã kinh nghiệm sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự đa dạng của các Giáo hội địa phương hiện diện trong vùng đất ấy. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã trở nên “một lòng một ý” trong đức tin, trong niềm hy vọng và trong đức ái, đặc biệt là trong các cử hành Thánh Thể, vốn là nguồn mạch và chóp đỉnh của sự hiệp thông Giáo hội, và cũng trong Phụng vụ các Giờ kinh được cử hành mỗi sáng theo một trong bảy nghi lễ Công giáo của Trung Đông. Nhờ đó, chúng ta đã làm phong phú thêm gia sản phụng vụ, thiêng liêng và thần học của các Giáo hội Công giáo Đông phương cũng như của Giáo hội Latinh. Đó là một cuộc trao đổi quý báu các hồng ân thiêng liêng, từ đó mọi nghị phụ Thượng Hội đồng đều được hưởng lợi ích. Ước gì kinh nghiệm tích cực này được tái diễn trong các cộng đoàn tại Trung Đông, khích lệ các tín hữu tham dự phụng vụ của các nghi lễ Công giáo khác, và nhờ đó mở lòng đón nhận chiều kích phổ quát của Giáo hội toàn cầu.
Việc cầu nguyện chung cũng đã giúp chúng ta đối diện với những thách đố của Giáo hội Công giáo tại Trung Đông. Một trong những thách đố ấy là hiệp thông trong từng Giáo hội Tự trị (sui iuris), cũng như trong các mối tương quan giữa các Giáo hội Công giáo thuộc các truyền thống khác nhau. Như bài Tin mừng hôm nay đã nhắc nhở chúng ta (x. Lc 18,9–14), chúng ta cần có lòng khiêm tốn, để nhận ra những giới hạn, sai sót và những thiếu sót của chính mình, nhờ đó mới có thể thực sự trở nên “một lòng một ý.” Một sự hiệp thông trọn vẹn hơn trong Giáo hội Công giáo cũng thúc đẩy việc đối thoại đại kết với các Giáo hội và cộng đoàn Kitô giáo khác. Trong khóa họp Thượng Hội đồng này, Giáo hội Công giáo một lần nữa tái khẳng định niềm xác tín sâu xa về việc kiên trì theo đuổi đối thoại ấy, để lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được nên trọn: “Xin cho tất cả nên một” (Ga 17,21).
Những lời của Chúa Giêsu cũng được áp dụng cách đặc biệt cho các Kitô hữu ở Trung Đông: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước Trời cho anh em” (Lc 12,32). Thật vậy, dù họ là thiểu số, nhưng họ mang trong mình Tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa cho con người, tình yêu đã được mặc khải trên chính mảnh đất thánh nơi con người của Chúa Giêsu Kitô. Lời cứu độ ấy, được củng cố nhờ ân sủng của các Bí tích, vang lên cách mạnh mẽ đặc biệt tại những nơi mà, theo sự quan phòng của Thiên Chúa, Lời ấy đã được ghi chép, và chính Lời này là Lời duy nhất có thể phá vỡ vòng luẩn quẩn của trả thù, hận ghét và bạo lực. Từ một con tim thanh khiết, trong bình an với Thiên Chúa và tha nhân, các ý định và sáng kiến hòa bình sẽ được nảy sinh, từ cấp độ địa phương đến quốc gia và quốc tế. Trong các hành động này mà toàn thể cộng đồng quốc tế được mời gọi hoàn thành, các Kitô hữu, với tư cách là những công dân chính thức, có thể và phải góp phần của mình, với tinh thần của Bát Phúc, để trở nên những người kiến tạo hòa bình và các tông đồ của sự hòa giải vì lợi ích cho toàn thể xã hội.
Các cuộc xung đột, chiến tranh, bạo lực và khủng bố đã kéo dài quá lâu tại Trung Đông. Hòa bình, vốn là hồng ân của Thiên Chúa, cũng là kết quả của những nỗ lực của con người thiện chí, của các tổ chức quốc gia và quốc tế, đặc biệt là của những quốc gia tham gia nhiều nhất trong việc tìm kiếm giải pháp cho các cuộc xung đột. Chúng ta không bao giờ được chấp nhận tình trạng thiếu vắng hòa bình như một thực tại không thể thay đổi. Hòa bình là điều có thể. Hòa bình là điều khẩn cấp. Hòa bình là điều kiện không thể thiếu cho một đời sống xứng đáng với nhân loại và xã hội. Hòa bình cũng là phương thuốc tốt nhất để tránh sự di cư khỏi Trung Đông. Chúng ta được kể trong Thánh Vịnh (122,6) rằng: “Hãy cầu chúc bình an cho Giêrusalem.” Chúng ta cầu nguyện cho hòa bình tại Đất Thánh. Chúng ta cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông, đồng thời nỗ lực dấn thân để đảm bảo rằng hồng ân này của Thiên Chúa dành cho những ai thiện chí có thể lan tỏa khắp hoàn cầu.
Một đóng góp khác mà các Kitô hữu có thể mang lại cho xã hội là việc thúc đẩy tự do đích thực về tôn giáo và lương tâm, một trong những quyền căn bản của con người mà mọi quốc gia đều phải tôn trọng. Tại nhiều quốc gia Trung Đông, quyền tự do tín ngưỡng hiện diện, nhưng không gian dành cho việc tự do thực hành tôn giáo lại thường bị giới hạn. Việc mở rộng không gian tự do ấy là điều thiết yếu để bảo đảm cho mọi thành viên thuộc các cộng đồng tôn giáo khác nhau có được quyền tự do thật sự trong việc sống và tuyên xưng đức tin của mình. Chủ đề này có thể trở thành nội dung của cuộc đối thoại giữa Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo, một cuộc đối thoại mà các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã tái khẳng định về tính cấp bách và hữu ích của nó.
Trong suốt quá trình làm việc của Thượng Hội đồng, điều được nhấn mạnh nhiều lần là sự cần thiết phải mang Tin mừng trở lại cho những người chưa biết rõ hoặc thậm chí đã xa rời Giáo hội. Điều cũng thường xuyên được nhắc đến là nhu cầu về một cuộc tái truyền giảng Tin mừng cho chính vùng Trung Đông. Đây là một chủ đề khá phổ biến, đặc biệt tại những quốc gia nơi Kitô giáo có cội rễ lâu đời. Việc thành lập gần đây của Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy Tân Phúc Âm hóa cũng đáp ứng cho nhu cầu sâu xa này. Vì lý do đó, sau khi đã tham khảo ý kiến hàng Giám mục khắp thế giới và lắng nghe Hội đồng Thường vụ của Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục, tôi đã quyết định dành Đại hội Khoáng đại Thường kỳ kế tiếp, vào năm 2012, cho chủ đề sau đây:“Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam – Tân Phúc Âm hóa để truyền đạt Đức Tin Kitô giáo.”
Anh chị em thân mến tại Trung Đông!
Ước chi kinh nghiệm của những ngày vừa qua bảo đảm với anh chị em rằng anh chị em không bao giờ đơn độc, rằng anh chị em luôn được Tòa Thánh và toàn thể Giáo hội đồng hành, vốn được sinh ra tại Giêrusalem, lan rộng khắp Trung Đông và từ đó đến tận cùng thế giới.
Chúng ta phó dâng các thành quả của Đại hội Đặc biệt về Trung Đông, cũng như việc chuẩn bị cho Đại hội Khoáng đại Thường kỳ sắp tới, cho Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Giáo hội và Nữ Vương Hòa Bình. Amen.
Nguồn tin: hdgmvietnam.org
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn