Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2023:Chúng ta có thể tìm và gặp Chúa ở đâu? Như một vì sao mọc (x. Ds 24:17), Chúa Giêsu đến để soi sáng mọi dân tộc và soi sáng màn đêm của nhân loại. Hôm nay, cùng với các đạo sĩ, chúng ta hãy ngước mắt lên trời và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2:2). Chúng ta có thể tìm và gặp Chúa ở đâu? Từ kinh nghiệm của các đạo sĩ, chúng ta biết rằng “nơi” đầu tiên mà Chúa yêu thích được tìm đến là sự thao thức đưa ra các câu hỏi. Cuộc phiêu lưu thú vị của ba nhà chiêm tinh dạy chúng ta rằng đức tin không được sinh ra từ công trạng, suy luận lý thuyết của chúng ta. Đức tin là hồng ân Chúa. Ân sủng Chúa giúp chúng ta rũ bỏ sự thờ ơ và mở tâm trí để đặt ra những câu hỏi quan trọng trong cuộc sống. Những câu hỏi thách đố chúng ta bỏ lại phía sau những vọng tưởng cho rằng mọi sự đều ổn, những câu hỏi mở ra cho chúng ta những gì vượt trên chúng ta. Đối với ba nhà chiêm tinh, điều khởi đầu là: sự thao thức tự hỏi về người mà họ phải tìm kiếm. Lấp đầy bởi niềm khao khát vô tận, họ quan sát bầu trời, và để cho mình ngạc nhiên trước sự rực rỡ của một vì sao và nghiệm thấy sự khao khát hướng đến siêu việt, vốn dẫn dắt con đường của các nền văn minh và sự tìm kiếm không mệt mỏi của trái tim con người. Thật vậy, ngôi sao ấy để lại cho họ một câu hỏi: Đấng ấy đã sinh ra ở đâu? Hành trình đức tin bắt đầu khi, với ơn Chúa, chúng ta biết dành chỗ cho sự thao thức, khắc khoải khiến chúng ta thức tỉnh, khi chúng ta để cho mình được chất vấn, khi chúng ta không hài lòng với thói quen nhưng dấn thân vào những thách đố hằng ngày, khi chúng ta bước ra khỏi vùng an toàn và quyết định đối diện với sự bớt thoải mái trong cuộc sống: tương quan với người khác, những điều bất ngờ, những dự án cần tiếp tục, những ước mơ cần thực hiện, những nỗi sợ hãi phải đối diện, đau khổ về thể chất và tinh thần. Những lúc như thế, trong sâu thẳm tâm hồn, nảy sinh những câu hỏi dẫn chúng ta đi tìm Chúa: Hạnh phúc của tôi ở đâu? Cuộc sống viên mãn mà tôi hằng khao khát ở đâu? Đâu là tình yêu không qua đi, không lụi tàn, không tan vỡ ngay cả khi đứng trước sự mong manh, thất bại và phản bội? Đâu là những cơ hội tiềm ẩn bên trong những khủng hoảng và đau khổ của tôi? Mỗi ngày, chính bầu khí chúng ta hít thở chứa đầy những “liều thuốc an thần” thay thế những thao thức nơi tâm hồn chúng ta và dập tắt những chất vấn này: từ sản phẩm của chủ nghĩa tiêu thụ đến sự quyến rũ của thú vui, từ những tranh luận bất tận đến việc tôn thờ sự sung túc; Mọi thứ dường như nói với chúng ta: Đừng suy nghĩ quá nhiều; hãy bỏ qua và tận hưởng cuộc sống! Chúng ta thường cố gắng xoa dịu tâm hồn bằng những tiện nghi thoải mái, nhưng nếu các nhà chiêm tinh đã làm như vậy, họ sẽ không bao giờ gặp Chúa. Tuy nhiên, Chúa luôn ở đó, trong sự chất vấn thao thức của chúng ta. Trong câu hỏi đó, chúng ta “tìm kiếm Người như bóng đêm tìm bình minh… Người vẫn thinh lặng khiến chúng ta bối rối trước cái chết và trước sự chấm dứt của mọi sự con người cho là vĩ đại. Ngược lại, Người hiện diện trong niềm khao khát công lý và tình yêu sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta. Người là mầu nhiệm thánh thiện đáp lại lòng khao khát của chúng ta về Đấng Hoàn toàn Khác; khao khát sự hoàn hảo của công lý, hòa giải và hòa bình. Vì vậy, đó là nơi đầu tiên chúng ta có thể gặp Chúa: trong sự chất vấn không ngừng nghỉ. Nơi thứ hai chúng ta có thể gặp Chúa là trong sự mạo hiểm của hành trình. Thực tế, những chất vấn, ngay cả những chất vấn thiêng liêng, có thể dẫn đến sự thất vọng và sầu khổ nếu chúng ta không bắt đầu lên đường, không hướng nội tâm về dung nhan Chúa và vẻ đẹp của Lời Người. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói về các nhà chiêm tinh rằng: “Cuộc lữ hành bên ngoài của họ là biểu hiện của hành trình bên trong, cuộc hành hương nội tâm của tâm hồn”. Thực tế, các nhà chiêm tinh không chỉ nghiên cứu bầu trời và chiêm ngưỡng ánh sáng của các vì sao, nhưng họ bắt đầu cuộc hành trình đầy mạo hiểm, không thấy trước những con đường an toàn và bản đồ xác định. Họ muốn khám phá vị Vua dân Do Thái, muốn biết nơi Người sinh ra, nơi họ có thể tìm thấy. Và vì vậy, họ hỏi vua Hêrôđê, và vua đã lần lượt triệu tập các thượng tế và kinh sư trong dân, những người nghiền ngẫm Kinh thánh. Các nhà chiêm tinh đang trong một cuộc hành trình; hầu hết các động từ được sử dụng để mô tả hành động của họ là các động từ chuyển động. Đức tin của chúng ta cũng vậy: nếu không có một cuộc hành trình liên tục trong cuộc đối thoại thường xuyên với Chúa, không chăm chú lắng nghe lời Người, không kiên trì, thì đức tin không thể phát triển. Một vài ý tưởng về Thiên Chúa, một số lời cầu nguyện nhằm xoa dịu lương tâm thì chưa đủ. Chúng ta cần trở thành những môn đệ theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, mang mọi sự đến với Người trong cầu nguyện, tìm kiếm Người trong các biến cố của cuộc sống hàng ngày và nơi khuôn mặt của anh chị em chúng ta. Từ Ápraham, người đã lên đường đến một vùng đất xa lạ, đến các nhà chiêm tinh lên đường theo vì sao, đức tin luôn là một hành trình, một cuộc hành hương, một lịch sử của những khởi đầu và lại bắt đầu. Phải nhớ rằng đức tin sẽ không lớn lên nếu không chuyển động. Chúng ta không thể gói gọn đức tin vào một số việc đạo đức cá nhân hoặc giới hạn trong bốn bức tường của nhà thờ; chúng ta cần mang đức tin ra bên ngoài và sống đức tin trong một hành trình không ngừng hướng về Thiên Chúa và anh chị em. Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có đang tiến về Chúa của sự sống, để Người trở thành Chúa của đời tôi không? Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ai đối với con? Chúa gọi con đi đâu, Chúa yêu cầu điều gì trong cuộc đời con? Những lựa chọn nào Chúa đang mời gọi con thực hiện cho người khác? Cuối cùng, sau những chất vấn thao thức và sự mạo hiểm của cuộc hành trình, nơi thứ ba để gặp Chúa là sự ngạc nhiên của sự tôn thờ. Kết thúc cuộc hành trình dài và tìm kiếm mệt mỏi, các nhà chiêm tinh bước vào nhà, “thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11). Đây mới là điều thực sự quan trọng: thao thức, chất vấn, hành trình thiêng liêng và thực hành đức tin của chúng ta, tất cả phải hội tụ trong sự tôn thờ Chúa. Ở đó, họ tìm thấy trung tâm và nguồn gốc của mình, vì ở đó mọi sự bắt đầu, vì chính Chúa giúp chúng ta cảm nhận và hành động. Mọi sự bắt đầu và kết thúc ở đó, vì mục đích của mọi sự không phải là để đạt được một mục tiêu cá nhân hay nhận lấy vinh quang cho chính mình, nhưng là để gặp gỡ Thiên Chúa và để chúng ta được bao bọc bởi tình yêu Chúa, đặt nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta, một tình yêu giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, mở lòng chúng ta để yêu thương người khác, và làm cho chúng ta trở thành một dân tộc có khả năng xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn. Các hoạt động mục vụ của chúng ta sẽ vô ích nếu chúng ta không đặt Chúa Giêsu làm trung tâm và sấp mình thờ lạy Người. Ở đó, chúng ta học cách đứng trước Thiên Chúa, không phải để xin hoặc làm một điều gì đó, nhưng đơn giản là dừng lại trong thinh lặng và phó mình cho tình yêu Người, để lòng thương xót Chúa đón nhận và tái sinh chúng ta. Như các nhà chiêm tinh, chúng ta hãy sấp mình và phó dâng cho Thiên Chúa sự ngạc nhiên tôn thờ. Chúng ta hãy thờ phượng Chúa, chứ không phải tôn thờ chính mình; chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa chứ không phải tôn thờ những thần tượng giả dối quyến rũ chúng ta bởi danh vọng và quyền lực; chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa và không cúi mình trước những điều phù du và những tư tưởng xấu xa, quyến rũ nhưng giả dối và trống rỗng. Ước gì chúng ta không bao giờ ngừng thao thức đặt ra những câu hỏi; ước gì chúng ta không bao giờ làm gián đoạn hành trình của chúng ta bằng cách chiều theo sự thờ ơ hoặc thoải mái; và trong cuộc gặp gỡ Chúa, ước gì chúng ta phó mình cho sự ngạc nhiên tôn thờ. Rồi chúng ta sẽ khám phá ra rằng có một ánh sáng chiếu rọi ngay cả trong những bóng đêm đen tối nhất: ánh sáng của Chúa Giêsu, sao mai chói lọi, mặt trời công lý, vẻ huy hoàng đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng yêu thương mọi người nam nữ và mọi dân tộc trên trái đất.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2023 –Ba món quà các nhà chiêm tinh nhận được Anh chị em thân mến, chào anh chị em và mừng lễ anh chị em! Hôm nay, lễ trọng Chúa Hiển Linh, Tin Mừng nói với chúng ta về các Nhà Chiêm tinh khi đến Bêlem, mở bảo tráp và dâng Chúa Giêsu vàng, nhũ hương và một dược (x. Mt 2:11). Những nhà hiền triết phương Đông này nổi tiếng với những món quà mà họ đã tặng; tuy nhiên, nghĩ về lịch sử của họ, chúng ta có thể nói rằng trước hết họ đã nhận được ba món quà, ba hồng ân quý giá cũng liên quan đến chúng ta. Họ tặng vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng ba món quà họ đã nhận được là gì? Món quà được gọi Món quà đầu tiên là món quà được gọi. Các Nhà Chiêm tinh đã không nhận ra bằng cách đọc Kinh thánh hoặc có thị kiến của các thiên thần, nhưng họ đã nhận ra khi nghiên cứu các vì sao. Điều này cho chúng ta biết một điều quan trọng: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta qua những khát vọng và mong muốn lớn nhất của chúng ta. Các Nhà Chiêm tinh để mình được ngạc nhiên và thúc bách trước sự mới lạ của ngôi sao và bắt đầu hướng tới những gì họ không biết. Là những người hiểu biết và khôn ngoan, họ bị thu hút bởi những gì họ không biết hơn là những gì họ đã biết. Mở ra với những gì họ không biết. Họ cảm thấy được gọi để đi xa hơn, họ không cảm thấy hạnh phúc khi đứng tại chỗ đó: không, họ được gọi để đi xa hơn. Và điều này cũng quan trọng đối với chúng ta: chúng ta được mời gọi để không tự thỏa mãn, nhưng tìm kiếm Chúa bằng cách bước ra khỏi vùng an toàn của mình, cùng với người khác, để tiến về phía Người, hòa mình vào thực tại, bởi vì Thiên Chúa kêu gọi mỗi ngày, ở đây và lúc này. Chúa gọi chúng ta, mỗi người chúng ta, mỗi ngày, Người gọi chúng ta ở đây và Người gọi chúng ta hôm nay, Người gọi chúng ta trong thế giới của chúng ta. Món quà phân định Nhưng các Nhà Chiêm tinh sau đó cho chúng ta biết về món quà thứ hai: sự phân định. Vì rằng họ đang tìm kiếm một vị vua, nên họ đến Giêrusalem để hỏi vua Hêrôđê, tuy nhiên, đây lại là một người khao khát quyền lực và muốn sử dụng họ để loại bỏ Mêsia hài nhi. Nhưng các Nhà Chiêm tinh không để bị Hêrôđê lừa. Họ biết cách phân định giữa đích đến của cuộc hành trình và những cám dỗ mà họ gặp phải trên đường. Lẽ ra họ có thể ở lại đó, trong triều đình của Hêrôđê, trong bình an, nhưng không, họ tiếp tục lên đường. Họ rời cung điện của vua Hêrôđê và, theo dấu chỉ của Thiên Chúa, họ không bao giờ đi ngang qua đó nữa, nhưng về lại xứ mình bằng một con đường khác (x. câu 12). Anh chị em thân mến, thật quan trọng khi biết cách phân biệt giữa mục đích của cuộc sống với những cám dỗ trên hành trình! Một bên là mục đích của cuộc sống, và bên kia là những cám dỗ của hành trình. Cần phải biết từ bỏ những gì cám dỗ dẫn vào đường xấu, để hiểu và chọn những con đường của Chúa! Sự phân định là một món quà tuyệt vời, và người ta không bao giờ được mệt mỏi khi cầu xin ơn đó trong cầu nguyện. Chúng ta luôn cần xin ơn này! Lạy Chúa, xin ban cho con khả năng phân biệt đúng sai, điều tốt nhất và điều không phải tốt nhất. Món quà ngạc nhiên Cuối cùng, các Nhà Chiêm tinh cho chúng ta biết về món quà thứ ba: sự ngạc nhiên. Sau một hành trình dài, những người có địa vị xã hội cao này tìm thấy gì? Một hài nhi và mẹ của Người (x. câu 11): chắc chắn là một khung cảnh dịu dàng, nhưng không có gì đáng kinh ngạc! Họ không gặp các thiên thần như những người chăn chiên đã gặp, nhưng họ gặp Chúa trong sự nghèo khó. Có lẽ họ đang mong đợi một Đấng Mêsia đầy quyền năng và phi thường, và họ đã tìm thấy một đứa trẻ. Vậy mà họ không nghĩ là mình đã sai, họ biết cách nhận ra điều đó. Họ chào đón sự ngạc nhiên của Thiên Chúa và trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Người bằng sự ngạc nhiên, tôn thờ Người: trong cái nhỏ bé, họ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa. Là con người, tất cả chúng ta đều có xu hướng tìm kiếm sự vĩ đại, nhưng biết cách nhìn thấy sự vĩ đại đó thực sự là một hồng ân: biết cách tìm thấy sự vĩ đại trong sự nhỏ bé mà Thiên Chúa hết sức yêu quý. Bởi vì Chúa để cho mình được gặp gỡ trong sự khiêm tốn, trong thinh lặng, trong sự tôn thờ, nơi những người bé nhỏ và người nghèo. Anh chị em thân mến, tất cả chúng ta đều được gọi, là món quà thứ nhất, tất cả chúng ta đều có thể phân định, là món quà thứ hai, và tất cả chúng ta đều có thể kinh nghiệm được sự ngạc nhiên của Người, là món quà thứ ba. Hôm nay, chúng ta cần nhớ lại những món quà này, những ơn mà chúng ta đã nhận được: nghĩ về lúc mình nhận ra tiếng Chúa gọi trong cuộc đời mình; hoặc khi, sau rất nhiều cố gắng, chúng tôi đã có thể phân biệt được tiếng nói của Người; hoặc một lần nữa, một sự ngạc nhiên khó quên mà Người đã ban cho chúng ta. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta nhớ và giữ những hồng ân đã lãnh nhận.
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2022:Cuộc hành trình hướng về Chúa Giêsu Các đạo sĩ đi đến Bêlem. Cuộc hành hương của họ cũng nói với chúng ta rằng: chúng ta được mời gọi thực hiện một cuộc hành trình hướng về Chúa Giêsu, vì Người là Sao Bắc Đẩu soi sáng bầu trời cuộc đời và hướng dẫn chúng ta bước tới niềm vui đích thực. Nhưng cuộc hành hương của các đạo sĩ đến gặp Chúa Giêsu bắt đầu từ đâu? Điều gì đã thúc đẩy những người phương Đông này thực hiện cuộc hành trình? Họ có lý do tuyệt vời để không ra đi. Họ là những nhà thông thái và nhà thiên văn, nổi tiếng và giàu có. Một khi đã đạt được sự an toàn về văn hoá, xã hội và kinh tế như vậy, họ có thể an tâm với những gì họ biết và có. Trái lại, một câu hỏi và một dấu hiệu đã làm họ cảm thấy bồn chồn: “Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương… ” (Mt 2, 2). Họ không cho phép tâm hồn rút lui vào hang động của sự vô cảm, và thờ ơ; họ khát khao được nhìn thấy ánh sáng. Họ không để cho sự mệt mỏi làm cho họ trở nên lười biếng, nhưng được khơi dậy bởi khao khát về những chân trời mới. Đôi mắt của họ không hướng xuống đất, nhưng là cửa sổ mở ra hướng về trời cao. Như Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói, các đạo sĩ là “những người có trái tim không ở yên. […] Những người sống trong sự chờ mong, những người không hài lòng với thu nhập được bảo đảm và với vị trí xã hội của họ […]. Họ là những người tìm kiếm Chúa” (Bài giảng ngày 06/01/2013). Sự nôn nao lành mạnh này thúc giục họ ra đi, điều này đến từ đâu? Từ ước muốn. Đây là bí quyết nội tâm của họ: khả năng ước muốn. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này. Ước muốn có nghĩa là giữ cho ngọn lửa luôn bùng cháy trong chúng ta và thúc đẩy chúng ta nhìn xa hơn những gì thấy trước mắt và có thể nhìn thấy được. Nó có nghĩa là đón nhận cuộc sống như một mầu nhiệm vượt trên chúng ta, như một khe hở luôn mở mời chúng ta nhìn xa hơn, bởi vì cuộc sống không phải là “tất cả ở đây”, nó còn ở “nơi khác”. Nó giống như một bức vẽ trống cần được tô màu. Chính họa sĩ vĩ đại, Van Gogh, đã viết rằng Chúa đã thúc đẩy ông ra ngoài vào ban đêm để vẽ các vì sao. Vì đó là cách mà Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta: tràn đầy ước muốn; được hướng dẫn, giống như các đạo sĩ, hướng tới các vì sao. Chúng ta là những gì chúng ta ước muốn. Bởi vì chính những ước muốn mở rộng tầm nhìn của chúng ta và thúc đẩy cuộc sống đi xa hơn: vượt ra khỏi rào cản của thói quen, vượt ra khỏi chủ nghĩa tiêu dùng tầm thường, vượt ra khỏi đức tin buồn tẻ và u ám, vượt ra ngoài sự lo ngại khi tham gia phục vụ người khác và công ích. Thánh Augustinô đã nói “Cuộc sống của chúng ta là một cuộc thao luyện của ước muốn” (Bài giảng về Thư thứ nhất của thánh Gioan 5, 6). Như đối với các đạo sĩ, chúng ta cũng vậy: hành trình cuộc sống và hành trình đức tin đòi hỏi một ước muốn sâu xa, một lòng nhiệt thành bên trong. Là Giáo hội, chúng ta cần điều này. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta đang ở đâu trên hành trình đức tin? Có phải chúng ta đã bị mắc kẹt quá lâu, nép mình trong một tôn giáo bình thường, bên ngoài và hình thức không còn sưởi ấm trái tim và không thay đổi cuộc sống chúng ta? Lời nói và phụng vụ của chúng ta có khơi dậy trong lòng mọi người ước muốn hướng về Thiên Chúa hay là những “lời chết”, chỉ nói về chính mình? Thật đáng buồn khi một cộng đoàn tín hữu không còn ước muốn nữa, và bằng lòng với sự “duy trì” hơn là để cho Chúa Giêsu và niềm vui vỡ oà và làm đảo lộn của Tin Mừng làm cho giật mình. Khủng hoảng đức tin, trong cuộc sống và xã hội của chúng ta, cũng liên quan đến sự biến mất lòng khao khát Thiên Chúa. Nó liên quan đến loại tinh thần uể oải, đến thói quen bằng lòng với cuộc sống hàng ngày, không bao giờ hỏi Chúa muốn gì ở chúng ta. Chúng ta xem qua bản đồ của trái đất, nhưng quên nhìn lên Thiên đàng. Chúng ta có đầy đủ mọi thứ, nhưng không khao khát những gì chúng ta đang thiếu. Chúng ta đã gắn chặt với nhu cầu, với những gì chúng ta sẽ ăn và những gì chúng ta sẽ mặc (Mt 6,25), và để cho sự khao khát những gì trổi vượt bị tan biến. Và chúng ta thấy mình đang sống trong cộng đoàn có mọi thứ nhưng thường không cảm thấy gì ngoài sự trống rỗng trong tâm hồn. Bởi vì thiếu ước muốn nên dẫn đến buồn bã và thờ ơ. Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào chính mình và tự hỏi: Hành trình đức tin của tôi hiện nay như thế nào? Đức tin, nếu muốn lớn lên, cần phải được khơi dậy bởi ước muốn, tham gia vào cuộc phiêu lưu của một tương quan sống động với Chúa. Nhưng tâm hồn tôi còn cháy lửa khao khát Chúa không? Hay tôi để thói quen và sự thất vọng dập tắt nó? Hôm nay là ngày chúng ta cần đưa ra những câu hỏi này. Hôm nay là ngày chúng ta để cho những câu hỏi này chất vấn chúng ta. Hôm nay là ngày để quay lại nuôi dưỡng ước muốn. Chúng ta làm thế nào? Chúng ta hãy đi đến “trường học ước muốn” của các đạo sĩ. Chúng ta cùng nhìn xem các bước mà họ đã hoàn thành và từ đó rút ra một số bài học. Trước hết, họ lên đường khi ngôi sao mọc lên. Các đạo sĩ dạy chúng ta rằng chúng ta phải luôn bắt đầu lại mỗi ngày, trong cuộc sống cũng như đức tin, bởi vì đức tin không phải là một chiếc áo giáp bao bọc chúng ta, nhưng là một cuộc hành trình lôi cuốn, một chuyển động không ngừng, luôn tìm kiếm Chúa. Sau đó, ở Giêrusalem các đạo sĩ đặt câuhỏi: họ hỏi Hài Nhi ở đâu. Họ dạy chúng ta rằng chúng ta cần phải đặt câu hỏi. Chúng ta cần lắng nghe cẩn thận những câu hỏi của trái tim, của lương tâm chúng ta, vì đây là cách Chúa thường nói với chúng ta. Người đến với chúng ta bằng những câu hỏi hơn là bằng câu trả lời. Nhưng chúng ta cũng hãy để cho mình được quấy rầy bởi những câu hỏi của trẻ em, bởi những nghi ngờ, hy vọng và ước muốn của con người thời đại chúng ta. Sau đó, các đạo sĩ thách thức Hêrôđê. Họ dạy chúng ta rằng chúng ta cần một đức tin can đảm, ngôn sứ, không ngại thách thức theo lý luận đen tối của quyền lực và trở thành hạt giống của công lý và tình huynh đệ trong một xã hội, nơi ngày nay vẫn còn nhiều Hêrôđê gieo rắc cái chết và tàn sát người nghèo và người vô tội, trước sự thờ ơ của nhiều người. Cuối cùng, các đạo sĩ trở về “bằng con đường khác” (Mt 2,12): họ thách đố chúng ta đi những con đường mới. Đó là sự sáng tạo của Thần Khí, Đấng luôn làm những điều mới mẻ. Đó cũng là một trong những nhiệm vụ của Thượng Hội Đồng: cùng nhau bước đi trong lắng nghe, để Thánh Thần gợi ý những phương cách mới, những con đường đưa Tin Mừng đến với trái tim của những người thờ ơ, xa cách, của những người đã mất hy vọng nhưng đang tìm kiếm điều mà các đạo sĩ đã tìm thấy, “một niềm vui rất lớn” (Mt 2,10). Vào cuối hành trình của các đạo sĩ là thời điểm mấu chốt: khi đến đích, “họ quỳ gối xuống bái lạy Hài Nhi” (câu 11). Họ thờ lạy. Chúng ta hãy nhớ điều này: hành trình đức tin chỉ tìm thấy động lực và sự hoàn thành khi có sự hiện diện của Chúa. Chỉ khi chúng ta lấy lại được sự nếm cảm thờ phượng, thì ước muốn mới được canh tân. Bởi vì ước muốn Thiên Chúa chỉ tăng trưởng khi chúng ta đặt mình trong sự hiện diện của Chúa. Vì chỉ có Chúa Giêsu chữa lành những ước muốn chúng ta. Từ điều gì? Từ sự độc tài của nhu cầu. Thật vậy, trái tim trở nên ốm yếu khi ước muốn chỉ đi với nhu cầu. Trái lại, Chúa nâng cao những ước muốn; thanh tẩy, chữa lành, chữa lành ước muốn khỏi ích kỷ và mở ra cho chúng ta tình yêu đối với Người và đối với anh chị em của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng quên thờ lạy Người. Ở đó, giống như các đạo sĩ, chúng ta sẽ có niềm tin rằng ngay cả trong những đêm đen tối nhất cũng có một ngôi sao tiếp tục tỏa sáng. Đó là ngôi sao của Chúa Giêsu, Đấng đến để chăm sóc nhân loại yếu đuối của chúng ta. Hãy bắt đầu tiến về phía Người, đừng để cho sự thờ ơ và cam chịu quyền lực làm chúng ta mắc kẹt trong nỗi buồn của cuộc sống phẳng lặng. Thế giới mong đợi từ các tín hữu một động lực mới hướng về Thiên đàng. Như các đạo sĩ, chúng ta ngẩng cao đầu, chúng ta lắng nghe ước muốn của trái tim, chúng ta nhìn theo ngôi sao mà Chúa làm cho tỏa sáng trên chúng ta. Là những người tìm kiếm không ngừng nghỉ, chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận những điều ngạc nhiên của Chúa. Chúng ta mơ ước, chúng ta tìm kiếm, chúng ta tôn thờ. Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2022 –Khiêm nhường thờ lạy Chúa như các Đạo sĩ Anh chị em thân mến, chào anh chị em, chúc mừng lễ! Hôm nay là lễ trọng Chúa Hiển Linh, chúng ta chiêm niệm về trình thuật các Đạo sĩ trong Tin mừng thánh Mátthêu (x. 2,1-12). Họ phải trải qua một hành trình dài và mệt mỏi để đi và thờ lạy "vua dân Do Thái" (câu 2). Họ được hướng dẫn bởi dấu hiệu lạ thường của một vì sao, và cuối cùng khi đến đích, thay vì tìm thấy điều gì đó tuyệt vời, họ nhìn thấy một hài nhi cùng với người mẹ. Lẽ ra, họ có thể phản đối: "Một chặng đường dài và nhiều hy sinh vất vả để rồi chỉ tìm thấy một đứa trẻ đơn hèn sao?". Tuy nhiên họ không bị vấp ngã, không bị thất vọng. Họ không phàn nàn, nhưng phủ phục thờ lạy. “Khi bước vào nhà - theo lời Phúc Âm - thấy Hài Nhi cùng với thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11). Chúng ta hãy nghĩ đến những nhà hiền triết thông thái giàu có này, những người đến từ phương xa và phủ phục, tức là họ sấp mình xuống đất để thờ lạy một đứa trẻ! Nó có vẻ như là một điều mâu thuẫn. Thật là đáng ngạc nhiên khi một cử chỉ khiêm tốn như vậy lại được thực hiện bởi những người danh tiếng. Cúi mình trước một vị lãnh đạo, với dáng vẻ quyền lực và vinh quang là điều phổ biến vào thời đó. Và ngay cả ngày nay, điều đó không phải là điều xa lạ. Nhưng sấp mình trước Hài Nhi ở Bêlem thì không dễ dàng chút nào. Thật không dễ dàng để thờ phượng vị Thiên Chúa này, khi thần tính của Người vẫn chưa tỏ lộ và Người không có dáng vẻ khải hoàn. Nó có nghĩa là đón nhận sự vĩ đại của Thiên Chúa tỏ lộ trong sự nhỏ bé. Đây là một sứ điệp. Các Đạo sĩ hạ mình trước lối lý luận chưa từng nghe thấy của Thiên Chúa, họ chào đón Đấng Cứu Thế không phải như họ tưởng tượng về Người, nhưng như Người là, nhỏ bé và nghèo nàn. Sự thờ lạy của họ là dấu hiệu của những người đặt ý riêng của họ sang một bên và dành chỗ cho Thiên Chúa. Chúng ta cần khiêm nhường để thực hiện điều này. Phúc Âm nhấn mạnh về điều này: Phúc Âm không chỉ nói rằng các nhà thông thái đã thờ lạy, nhưng nhấn mạnh rằng họ sấp mình thờ lạy. Chúng ta hãy hiểu chi tiết này: sự thờ lạy của họ đi đôi với việc sấp mình. Khi thực hiện cử chỉ này, các Đạo sĩ cho thấy rằng họ khiêm nhường chào đón Đấng tỏ mình ra trong sự khiêm hạ. Và đây là cách họ mở lòng ra để thờ phượng Thiên Chúa. Những kho tàng mà họ mở ra là hình ảnh của trái tim rộng mở của họ: sự giàu có thực sự của họ không nằm ở danh vọng và thành công, mà ở sự khiêm tốn, ở ý thức rằng họ cần ơn cứu độ. Đây là tấm gương các Đạo sĩ đưa ra cho chúng ta hôm nay. Anh chị em thân mến, nếu chúng ta luôn là trọng tâm của mọi việc, với ý tưởng của riêng mình, và nếu chúng ta cho rằng mình có điều gì đó để khoe khoang trước mặt Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Người hoàn toàn, chúng ta sẽ không đến thờ phượng Người. Nếu sự giả tạo, phù phiếm, bướng bỉnh, cạnh tranh của chúng ta không được loại bỏ, chúng ta có thể sẽ đi đến chỗ tôn thờ ai đó hoặc điều gì đó trong cuộc sống, nhưng đó sẽ không phải là Chúa! Trái lại, nếu chúng ta từ bỏ sự tự mãn của mình, nếu tâm hồn chúng ta trở nên thơ bé, thì chúng ta sẽ khám phá lại sự ngạc nhiên của việc tôn thờ Chúa Giêsu. Bởi vì việc tôn thờ đến từ sự khiêm nhường trong tâm hồn: những người bị ám ảnh bởi chiến thắng sẽ không bao giờ nhận thức được sự hiện diện của Chúa. Chúa Giêsu đi ngang qua bên cạnh và bị phớt lờ, như đã xảy ra với nhiều người vào thời điểm đó, nhưng không phải với các Đạo sĩ. Nhìn vào họ, hôm nay chúng ta tự hỏi: tôi khiêm nhường thế nào? Tôi có tin chắc rằng lòng kiêu hãnh ngăn cản sự tiến bộ thiêng liêng của tôi không? Niềm kiêu hãnh đó, dù bộc lộ hay tiềm ẩn, luôn che phủ sự thôi thúc đến với Thiên Chúa. Tôi có làm việc dựa trên sự ngoan ngoãn vâng lời để mở lòng với Thiên Chúa và người khác, hay tôi luôn chú trọng vào bản thân và sự tự phụ kiêu căng của mình? Tôi có biết cách gạt quan điểm của mình sang một bên để đón nhận ý Thiên Chúa và ý kiến người khác không? Và cuối cùng: tôi có chỉ cầu nguyện và thờ phượng khi tôi cần điều gì đó, hay tôi luôn làm điều đó vì tôi tin rằng tôi luôn cần đến Chúa Giêsu? Các Đạo sĩ bắt đầu lên đường và hướng nhìn theo ánh sao và tìm thấy Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ rất nhiều. Hôm nay chúng ta có thể thực hiện lời khuyên này: hãy nhìn vào ngôi sao và bước đi. Đừng bao giờ dừng bước, nhưng đừng quên nhìn vào ngôi sao. Đây là lời khuyên của ngày hôm nay: hãy nhìn theo ngôi sao và bước đi, nhìn theo ánh sao và bước đi. Xin Đức Trinh Nữ Maria, tôi tớ của Chúa, dạy chúng ta khám phá lại nhu cầu cốt yếu của lòng khiêm nhường và hương vị sống động của việc tôn thờ. Nguồn: vaticannews.va/vi/
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2021: Học cách chiêm ngưỡng và thờ phượng Chúa Thánh sử Matthêu cho chúng ta biết rằng các Đạo sĩ, khi đến Bêlem, “thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2:11). Thờ phượng Chúa không phải là điều dễ dàng; nó không dễ dàng diễn ra. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành thiêng liêng nhất định và đôi khi là kết quả của một cuộc hành trình nội tâm lâu dài. Thờ phượng Chúa không phải là điều chúng ta làm một cách tự phát. Đành rằng con người có nhu cầu thờ phượng, nhưng chúng ta có nguy cơ không đạt được mục đích. Quả thực, nếu không thờ phượng Thiên Chúa thì chúng ta sẽ thờ thần tượng – không có con đường trung gian, hoặc là Thiên Chúa hoặc là thần tượng; hay nói như một nhà văn Pháp: “Ai không tôn thờ Chúa là thờ ma quỷ” (Léon Bloy) – và thay vì trở thành những người có đức tin, chúng ta sẽ trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng. Nó là như thế đấy! Trong thời đại chúng ta, điều đặc biệt cần thiết đối với chúng ta, với tư cách cá nhân cũng như cộng đồng, là dành nhiều thời gian hơn cho việc thờ phượng. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần học cách chiêm ngưỡng Chúa. Chúng ta đã phần nào đánh mất ý nghĩa của lời cầu nguyện tôn thờ, vì vậy chúng ta phải thực hiện lại nó, cả trong cộng đoàn lẫn trong đời sống thiêng liêng của chúng ta. Vậy hôm nay chúng ta hãy học một vài bài học hữu ích từ các Đạo sĩ. Giống như họ, chúng ta muốn sấp mình xuống thờ phượng Chúa. Thờ phượng Người một cách nghiêm túc chứ không phải như vua Hêrôđê đã nói: “Xin cho tôi biết chỗ đó ở đâu để tôi đến thờ lạy”. Không, sự thờ phượng đó không tốt. Chúng ta phải nghiêm túc! Phụng Vụ Lời Chúa cống hiến cho chúng ta ba cụm từ có thể giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của việc thờ phượng Chúa. Đó là: “ngước mắt lên”, “lên đường” và “nhìn thấy”. Ba cụm từ này có thể giúp chúng ta hiểu thế nào là người thờ phượng Chúa. Ngước mắt lên Cụm từ đầu tiên ngước mắt lên được ngôn sứ Isaia nói với chúng ta. Ngôn sứ mạnh mẽ mời gọi cộng đoàn Giêrusalem vừa mới trở về từ nơi lưu đày và đang bị nhụt chí bởi những thử thách và khó khăn: “Hãy ngước mắt lên và nhìn xung quanh” (Is 60,4). Ông kêu gọi họ để sự mệt mỏi và những lời than phiền sang một bên, thoát ra khỏi nút thắt của tầm nhìn hạn hẹp, giải phóng bản phân khỏi sự độc tài của cái tôi, luôn có xu hướng co cụm trong chính mình và trong những lo lắng của riêng mình. Để thờ phượng Chúa, trước hết cần “ngước mắt lên”: nghĩa là không để mình bị giam cầm bởi những bóng ma nội tâm dập tắt hy vọng, và đừng biến những vấn đề và khó khăn thành trọng tâm của cuộc sống của mình. Điều này không có nghĩa là phủ nhận thực tế, giả vờ hoặc tự lừa dối mình rằng tất cả đều ổn cả. Ngược lại, quan sát các vấn đề và những lo lắng theo cách mới, biết rằng Chúa biết những hoàn cảnh khó khăn của chúng ta, Người lắng nghe những lời cầu xin của chúng ta và không thờ ơ với những giọt nước mắt rơi xuống của chúng ta. Cách nhìn này, cách nhìn vẫn tin tưởng vào Chúa bất chấp những biến cố của cuộc sống, tạo nên lòng biết ơn thảo kính. Khi điều này xảy đến, trái tim mở ra với việc thờ kính. Ngược lại, khi chúng ta chỉ chú tâm đến các vấn đề, từ chối ngước mắt nhìn lên Chúa, thì sự sợ hãi xâm chiếm trái tim và làm cho nó mất phương hướng, làm nảy sinh sự tức giận, hoang mang, đau khổ, trầm cảm. Trong những điều kiện này, thật khó để thờ phượng Chúa. Nếu điều này xảy ra, chúng ta cần có can đảm phá bỏ vòng vây của những kết luận được suy diễn và nhận ra rằng thực tế thì vĩ đại hơn điều chúng ta tưởng tượng rất nhiều. Hãy ngước mắt và nhìn xung quanh: Chúa mời gọi chúng ta trước hết hãy tin tưởng vào Người, bởi vì Người thực sự quan tâm đến tất cả chúng ta. Cho nên nếu Thiên Chúa thêu dệt cho hoa cỏ ngoài đồng là thứ hôm nay mọc lên và mai lại bị ném vào lửa, thì Người sẽ chăm sóc cho chúng ta nhiều hơn biết bao? (x. Lc 12,28). Nếu chúng ta ngước mắt nhìn lên Chúa và nhìn mọi sự dưới ánh sáng của Người, chúng ta sẽ thấy rằng Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta: Ngôi Lời đã làm người (x. Ga 1,14) và luôn ở với chúng ta, mọi ngày mọi lúc (x. Mt 28,20). Khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa, các vấn đề của cuộc sống không biến đi, nhưng chúng ta cảm thấy rằng Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với chúng. Do đó, bước đầu tiên của thái độ thờ phượng là “ngước mắt lên”. Việc thờ lạy của chúng ta là việc thờ phượng của người môn đệ đã tìm thấy nơi Chúa một niềm vui mới và bất ngờ. Niềm vui của thế gian dựa trên của cải, thành công hay những thứ tương tự. Nhưng niềm vui của người môn đệ Chúa Ki-tô dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ thất hứa dù cho chúng ta gặp phải bất cứ thử thách nào. Lòng biết ơn thảo hiếu và niềm vui đánh thức trong chúng ta ước muốn thờ lạy Chúa, Đấng vẫn luôn trung thành và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Lên đường Cụm từ thứ hai Đức Thánh Cha suy tư trong bài giảng là lên đường. Trước khi có thể thờ lạy Hài Nhi ở Bê-lem, các Đạo sĩ đã thực hiện một cuộc hành trình dài. Thánh Mát-thêu viết: “Có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.’” (Mt 2,1-2). Một cuộc hành trình luôn ám chỉ sự biến đổi, sự thay đổi. Sau một cuộc hành trình chúng ta không còn như trước nữa. Nơi những người đã thực hiện một cuộc hành trình luôn luôn có điều gì đó mới mẻ: họ đã học được những điều mới, gặp gỡ những người mới và hoàn cảnh mới, và tìm thấy sức mạnh nội tâm mới khi đối diện với những khó khăn và nguy hiểm dọc đường đi. Không ai thờ lạy Chúa mà trước đó lại không có sự trưởng thành nội tâm sau khi đã thực hiện một cuộc hành trình. Chúng ta trở thành những người thờ lạy Chúa qua một tiến trình từ từ. Ví dụ, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng một người ở tuổi 50 thờ phượng khác với người ở tuổi 30. Những ai để cho mình được ân sủng uốn nắn thường được tiến bộ theo thời gian: vì vậy thánh Phao-lô nói với chúng ta rằng dáng vẻ bên ngoài của chúng ta già đi trong khi nội tâm của chúng ta được đổi mới mỗi ngày (x. 2Cr 4,16), khi chúng ta hiểu hơn về cách thế tốt nhất để thờ lạy Chúa. Từ cái nhìn này, những thất bại, khủng hoảng và sai lỗi của chúng ta có thể trở thành những kinh nghiệm học hỏi: chúng thường có thể giúp chúng ta ý thức hơn rằng chỉ có Chúa xứng đáng cho chúng ta thờ phượng, vì chỉ có Người có thể thỏa mãn những khát khao thâm sâu của chúng ta về sự sống và sự vĩnh hằng. Với sự qua đi của thời gian, những thử thách và khó khăn của cuộc sống - được sống với đức tin – giúp thanh tẩy trái tim, làm cho chúng ta trở nên khiêm nhường hơn và càng ngày càng mở rộng lòng ra với Chúa. Giống như các Đạo sĩ, chúng ta phải để cho mình học hỏi từ hành trình cuộc sống, được ghi dấu bởi những bất tiện không thể tránh khỏi của cuộc hành trình. Chúng ta không thể để cho những mệt mỏi, những vấp ngã và thất bại làm chúng ta nản chí. Ngược lại, bằng cách khiêm nhường nhìn nhận chúng, chúng ta sẽ biến chúng thành cơ hội để tiến đến với Chúa Giê-su. Cuộc sống không phải là để phô trương khả năng của chúng ta, mà là một cuộc hành trình hướng tới Đấng yêu thương chúng ta. Bằng cách ngắm Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy sức mạnh cần thiết để kiên trì với niềm vui mới. Nhìn thấy Và chúng ta đi đến cụm từ thứ ba: nhìn thấy. Thánh sử cho chúng ta biết rằng “bước vào nhà, họ thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2,10-11). Thờ lạy là một hành động bày tỏ lòng tôn kính dành cho các vị vua và các chức sắc cấp cao. Các Đạo sĩ thờ lạy Đấng mà họ biết là vua của dân Do Thái (X. Mt 2,2). Nhưng họ thật sự thấy gì? Họ thấy một đứa trẻ nghèo nàn và người mẹ. Tuy nhiên những nhà thông thái đến từ những miền xa xôi này đã có thể nhìn vượt trên những khung cảnh thấp hèn đó và nhận ra trong Hài Nhi đó sự hiện diện của một vị thủ lãnh. Họ có thể “thấy” vượt qua vẻ bề ngoài đó. Họ quỳ gối xuống trước Hài Nhi ở Bê-lem, bày tỏ sự tôn thờ mà trên hết là sự tôn thờ của nội tâm: họ mở kho báu đã mang theo làm quà tặng, những thứ tượng trưng cho tấm lòng của họ. Để thờ lạy Chúa chúng ta cần “nhìn” vượt qua bức màn của những vật hữu hình, những thứ thường lừa dối. Vua Herode và những công dân hàng đầu của Giêrusalem đại diện cho một thế giới nô lệ của những dáng vẻ bên ngoài và những thứ thu hút trước mắt; họ nhìn mà không biết thấy. Một thế giới chỉ coi trọng những thứ giật gân, thu hút sự chú ý của công chúng. Tuy nhiên, nơi các Đạo sĩ, chúng ta thấy một cách tiếp cận rất khác, cách mà chúng ta có thể định nghĩa là chủ nghĩa hiện thực thần học: một cách nhận thức thực tại của sự vật cách khách quan và đi đến nhận thức rằng Thiên Chúa tránh xa mọi thứ khoe khoang phô trương. Cách “nhìn” này vượt trên những thứ hữu hình và giúp chúng ta có thể thờ lạy Chúa, Đấng thường ẩn náu trong những hoàn cảnh đơn sơ, trong những người nghèo và những người bị gạt ra bên lề. Do đó đây là cách nhìn sự vật theo cách không để mình bị lóa mắt bởi pháo hoa trình diễn, nhưng tìm kiếm trong mỗi tình cảnh những điều thực sự quan trọng. Vậy cùng với thánh Phaolô chúng ta hãy “đừng chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Cr 4,18). Xin Chúa Giê-su giúp cho chúng ta trở thành những người thờ phượng thật sự, có khả năng bày tỏ bằng cuộc sống của chúng ta kế hoạch yêu thương của Chúa cho toàn nhân loại. Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2021 –Hãy để ánh sáng Chúa Kitô chiếu sáng trong tình yêu Anh chị em thân mến, chào anh chị em! Hôm nay chúng ta cử hành lễ Hiển Linh, nghĩa là việc Chúa tỏ mình ra cho mọi dân: thực tế, ơn cứu độ được Chúa Ki-tô thực hiện không có biên giới. Lễ Hiển Linh không phải là một mầu nhiệm khác; nó cũng vẫn là mầu nhiệm Giáng sinh, nhưng được nhìn dưới chiều kích của ánh sáng: ánh sáng chiếu soi mỗi người, ánh sáng được đón nhận bởi đức tin và ánh sáng để mang đến cho người khác bằng lòng bác ái, bằng chứng tá, bằng việc loan báo Tin Mừng. Cái nhìn của ngôn sứ Isaia, được thuật lại trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay (x. Is 60,1-6), vang vọng trong thời đại chúng ta và đúng lúc hơn bao giờ hết: “bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân” (c.2). Trong bối cảnh đó, ngôn sứ đã loan báo ánh sáng: ánh sáng được Thiên Chúa ban cho Giêrusalem và để soi lối cho muôn dân. Ánh sáng này có sức mạnh thu hút mọi người, gần cũng như xa, mọi người lên đường để đến với ánh sáng (c.3). Đó là một viễn tượng mở rộng trái tim, làm cho dễ thở hơn, mời gọi hy vọng. Chắc chắn rằng bóng tối hiện diện và đe dọa trong cuộc sống của mỗi người và trong lịch sử nhân loại nhưng ánh sáng của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn. Ánh sáng này cần được chào đón để có thể chiếu sáng cho tất cả mọi người. Nhưng chúng ta tự hỏi: Ánh sáng này ở đâu? Ngôn sứ đã thoáng thấy nó từ xa, nhưng điều đó đã đủ làm cho trái tim của Giêrusalem tràn ngập niềm vui không thể kìm nén. Đến lượt mình, khi tường thuật câu chuyện các Đạo sĩ, thánh sử Mát-thêu cho thấy ánh sáng này chính là Hài Nhi ở Bê-lem, chính là Chúa Giê-su, ngay cả khi vương quyền của Người không được mọi người chấp nhận. Người là ngôi sao xuất hiện ở chân trời, là Đấng Cứu Thế được mong đợi, qua Người, Thiên Chúa khai mạc vương quốc tình yêu, công lý và hòa bình của Người. Người giáng sinh không chỉ vì một số người nhưng vì tất cả mọi người nam nữ, vì tất cả các dân tộc. Ánh sáng cho mọi dân tộc, ơn cứu độ cho mọi dân tộc. Ánh sáng Chúa Ki-tô chiếu tỏa như thế nào? Ánh sáng của Chúa Ki-tô chiếu sáng vào mọi nơi và mọi lúc như thế nào? Chúa có cách loan truyền của Người. Người không thực hiện bằng các cách thế mạnh mẽ của các đế quốc trên thế giới này, những người luôn tìm cách nắm quyền hành. Không! Ánh sáng Chúa Ki-tô loan truyền qua việc loan báo Tin Mừng. Và với cùng “phương pháp” mà Thiên Chúa đã chọn để đến giữa chúng ta: Nhập Thể, nghĩa là bằng cách đến gần người khác, gặp gỡ họ, mang lấy thực tại của họ và mang chứng tá đức tin cho họ. Đây là cách duy nhất mà ánh sáng của Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu, có thể chiếu sáng nơi những người đón nhận nó và thu hút người khác. Ngôi sao là Chúa Ki-tô nhưng chúng ta cũng có thể và phải là ngôi sao cho các anh chị em của chúng ta, như những chứng nhân của các kho báu của sự tốt lành và lòng thương xót vô biên mà Đấng Cứu Chuộc ban tặng cách nhưng không cho mọi người. Ánh sáng Chúa Ki-tô không lan tỏa bằng cách chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng chứng tá, bằng sự tuyên xưng đức tin, và cả bằng sự tử đạo. Do đó, điều kiện là phải đón nhận ánh sáng này vào trong lòng, luôn luôn đón nhận nó nhiều hơn. Khốn cho chúng ta nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta sở hữu nó, rằng chúng ta chỉ cần “quản lý” nó! Giống như các Đạo sĩ, chúng ta cũng được mời gọi để cho mình được Chúa Ki-tô hấp dẫn, lôi cuốn, hướng dẫn, soi sáng và hoán cải: đó là hành trình của đức tin, qua cầu nguyện và suy ngắm các việc làm của Thiên Chúa, Đấng không ngừng làm cho chúng ta tràn đầy những niềm vui mới và sự ngạc nhiên. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Maria bảo vệ Giáo hội hoàn vũ để Giáo hội có thể truyền bá trên toàn thế giới Tin Mừng của Chúa Ki-tô, Ánh sáng của muôn dân, ánh sáng của mọi dân tộc. Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2020: Thờ lạy là một đòi hỏi của đức tin Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe (Mt 2,1-12), Ba vị Đạo sĩ bắt đầu bằng việc thể hiện ý định của họ: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện và chúng tôi đến để thờ lạy Người” (câu 2). Thờ lạy là mục tiêu hành trình của họ, là đích đến của chuyến đi. Thật vậy, khi họ đến Bêlem, “họ thấy Hài Nhi với thân mẫu, họ liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11). Nếu chúng ta mất đi cảm thức về thờ lạy, thì chúng ta cũng sẽ mất ý nghĩa lữ hành của đời sống Kitô hữu, vốn là một hành trình hướng về Chúa, chứ không phải hướng về chúng ta. Đây là một nguy cơ mà Tin Mừng cảnh báo chúng ta, khi trình bày bên cạnh các đạo sĩ, những nhân vật mà họ không thể thờ lạy. Trước hết là vua Hêrôđê, người sử dụng động từ thờ lạy, nhưng theo một cách thức lừa lọc. Thật vậy, ông yêu cầu các Đạo sĩ thông báo cho ông về nơi ở của Hài Nhi “để Ta cũng đến để bái thờ Người” (câu 8). Trong thực tế, Hêrôđê chỉ tôn thờ chính mình và do đó muốn gạt bỏ Hài Nhi bằng những lời giả dối. Điều này dạy chúng ta điều gì? Rằng con người, khi không tôn thờ Thiên Chúa, sẽ đi đến chỗ tôn thờ chính mình. Và ngay cả đời sống Kitô hữu, mà không tôn thờ Thiên Chúa, thì có thể trở thành một cách thức giáo dục để khẳng định mình và các kỹ năng của bản thân: đó là những Kitô hữu không biết thờ phượng. Đó là một nguy cơ nghiêm trọng: phục vụ chúng ta hơn là phục vụ Chúa. Đã bao nhiêu lần chúng ta tráo đổi lợi ích của Tin Mừng với lợi ích của bản thân, bao nhiêu lần chúng ta khoác áo tôn giáo để mình được dễ dàng, bao nhiêu lần chúng ta nhầm lẫn quyền năng Thiên Chúa nhắm phục vụ người khác, với sức mạnh thế gian để phục vụ chính mình! Ngoài Hêrôđê, Tin Mừng còn kể những người khác đã không thể thờ lạy: họ là các thượng tế và kinh sư. Họ chỉ cho Hêrôđê biết chính xác nơi Đấng Mêsia được sinh ra: tại Bêlem, miền Giuđê (x. câu 5). Họ biết những lời tiên tri và trích dẫn chính xác. Họ biết nơi phải đi, nhưng họ không đi. Cũng từ điều này chúng ta có thể rút ra một bài học. Trong đời sống Kitô hữu, biết thôi thì không đủ: không ra khỏi chính mình, không gặp gỡ, không thờ phượng, thì bạn chưa biết Chúa. Thần học và hiệu quả mục vụ sẽ ích lợi rất ít hoặc không ích gì nếu bạn không quỳ gối; nếu bạn không làm như những vị Đạo sĩ, những người không chỉ là những nhà tổ chức tài ba cho một chuyến đi, mà còn lên đường và thờ lạy. Khi thờ phượng, người ta nhận ra rằng đức tin không thu gọn trong một tập hợp các giáo lý tốt đẹp, nhưng là một mối tương quan với một Con Người sống để yêu. Bằng việc gặp gỡ diện đối diện với Chúa Giêsu để chúng ta biết khuôn mặt của Ngài. Bằng việc tôn thờ, chúng ta khám phá ra rằng đời sống Kitô hữu là một câu chuyện tình yêu với Thiên Chúa, nơi những ý tưởng tốt thôi thì chưa đủ, nhưng chúng ta phải đặt Ngài lên hàng đầu, như một người yêu làm đối với người mình yêu. Đây là cách mà Giáo hội phải trở thành, một người yêu tôn thờ của Chúa Giêsu, Hiền Phu của mình. Khởi đầu năm mới, chúng ta tái khám phá việc thờ phượng như một đòi hỏi của đức tin. Nếu chúng ta biết quỳ xuống trước Chúa Giêsu, chúng ta sẽ vượt thắng cám dỗ thiết lập con đường cho riêng mình. Thật vậy, thờ lạy là để thực hiện một cuộc thoát ly khỏi sự nô lệ lớn nhất, đó là của chính mình. Thờ lạy là đặt Chúa làm trung tâm để chúng ta không còn là trung tâm của chính mình. Là trả mọi sự đúng lại trật tự của chúng, để vị trí đầu tiên cho Chúa. Thờ lạy là đặt kế hoạch của Chúa lên trước thời gian của tôi, quyền lợi của tôi, không gian của tôi. Là chấp nhận lời dạy của Kinh thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4:10). Thiên Chúa của bạn: thờ lạy là cảm thấy rằng bạn với Thiên Chúa thuộc về nhau. Là cho Ngài làm “bạn” trong sự thân mật, là mang lại sự sống bằng việc cho phép Ngài bước vào cuộc sống của chúng ta. Là để mang lại niềm an ủi của Ngài cho thế giới. Thờ lạy là khám phá ra rằng cầu nguyện chỉ cần nói: “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” (Ga 20,28), và để mình được chi phối bởi sự dịu dàng của Ngài. Thờ lạy là gặp gỡ Chúa Giêsu mà không có một danh sách những đòi hỏi, nhưng với yêu cầu duy nhất là được ở với Người. Là khám phá ra rằng niềm vui và sự bình an phát triển với lời khen ngợi và tạ ơn. Khi chúng ta thờ lạy, chúng ta cho phép Chúa Giêsu chữa lành và thay đổi chúng ta. Bằng việc tôn thờ, chúng ta cho Chúa cơ hội biến đổi chúng ta bằng tình yêu của Ngài, để thắp sáng những bóng tối của chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh trong sự yếu đuối và can đảm trong những thử thách. Thờ lạy là đi đến điều cốt yếu này: đó là cách thức giải độc khỏi những thứ vô ích, khỏi lệ thuộc vào cơn nghiện làm tê liệt trái tim và đầu độc tâm trí. Thật vậy, bằng việc thờ lạy, chúng ta học cách từ chối những gì không được tôn thờ: thần tiền bạc, thần tiêu thụ, thần khoái lạc, thần thành công, cái tôi tự xưng thần. Thờ lạy là làm cho mình trở nên nhỏ bé trước sự hiện diện của Đấng tối cao, để khám phá trước mặt Ngài rằng sự vĩ đại của cuộc sống không phải trong việc mình có, nhưng trong việc mình yêu. Thờ lạy là sự khám phá ra anh chị em trước mầu nhiệm tình yêu vượt trên mọi khoảng cách: là rút ra những điều tốt đẹp từ nguồn cội, là tìm thấy nơi Thiên Chúa gần gũi sự can đảm để đến gần người khác hơn. Thờ lạy là biết thinh lặng trước Ngôi Lời Thiên Chúa, để học cách nói những lời không làm tổn thương, nhưng mang lại an ủi. Thờ lạy là một cử chỉ của tình yêu làm thay đổi cuộc sống. Là như các Đạo sĩ: mang đến cho Chúa vàng, để nói với Ngài rằng không có gì quý hơn Ngài; là dâng cho Ngài nhũ hương, để nói với Ngài rằng chỉ với Ngài, cuộc sống của chúng ta mới được nâng lên cao; là dâng cho Ngài mộc dược, thường xức lên cơ thể bị tổn thương và đau khổ, để hứa với Chúa Giêsu sẽ giúp những người lân cận của chúng ta đang chịu thiệt thòi và đau khổ, bởi vì nơi họ có Chúa. Chúng ta thường biết cầu nguyện để cầu xin và tạ ơn Thiên Chúa, nhưng Giáo hội phải đi xa hơn nữa với lời cầu nguyện thờ lạy. Chúng ta phải lớn lên trong việc thờ phượng. Đây là sự khôn ngoan mà chúng ta phải học mỗi ngày: Cầu nguyện thờ lạy. Anh chị em thân mến, hôm nay mỗi người chúng ta có thể tự hỏi: “Tôi có phải là một Kitô hữu tôn thờ không?”. Nhiều Kitô hữu cầu nguyện nhưng không biết thờ lạy. Hãy tự hỏi mình câu hỏi này. Chúng ta có tìm thời gian để thờ lạy trong ngày sống của chúng ta và tạo không gian để thờ lạy trong cộng đoàn của chúng ta không. Với tư cách là Giáo hội, chúng ta có thực hành những lời Thánh Vịnh chúng ta cầu nguyện hôm nay: “Lạy Chúa, muôn dân trên mặt đất sẽ tôn thờ Ngài.” Bằng cách thờ lạy, như các Đạo sĩ, chúng ta cũng sẽ khám phá ra ý nghĩa cuộc hành trình của chúng ta. Và, giống như Đạo sĩ, chúng ta sẽ nghiệm thấy một “niềm vui khôn tả” (Mt 2,10). Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2020–Trở về xứ mình nhưng bằng một lối khác Anh chị em thân mến! Chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Hiển Linh, để nhớ lại việc các Đạo sĩ từ phương Đông theo ngôi sao đến Bê lem để viếng thăm Đấng Cứu thế mới sinh. Ở cuối câu chuyện Tin Mừng, các Đạo sĩ “được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (câu 12). Những người khôn ngoan này, đến từ những vùng xa xôi, sau nhiều cuộc du hành, đã tìm được người mà họ muốn biết. Họ tìm thấy Ngài sau một khoảng thời gian dài tìm kiếm, chắc chắn có những khó khăn và thăng trầm. Và cuối cùng khi họ đến đích, họ phủ phục trước Hài Nhi, tôn thờ Ngài, dâng tặng Ngài những món quà quý giá. Sau đó, họ không do dự khởi hành trở về miền đất của họ. Nhưng cuộc gặp đó với Hài Nhi đã thay đổi họ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu không giữ chân các Đạo sĩ, trái lại, truyền cho họ một sự thúc đẩy mới để trở về xứ sở của họ, để kể những gì họ đã thấy và niềm vui mà họ đã cảm nhận. Nơi đó có một sự biểu lộ cách thức của Thiên Chúa, về cách biểu lộ của Ngài trong lịch sử. Kinh nghiệm về Thiên Chúa không khoá chặt chúng ta, nhưng giải thoát chúng ta; không giam cầm chúng ta, nhưng đưa chúng ta trở lại đường đi, dẫn chúng ta trở lại những nơi quen thuộc của cuộc sống chúng ta. Nơi chốn đang và sẽ như cũ, nhưng sau cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, chúng ta không còn như trước đây nữa. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi và làm biến đổi chúng ta. Thánh sử Matthêu nhấn mạnh rằng: các Đạo sĩ đã “đi lối khác” mà về xứ mình (câu 12). Họ được hướng dẫn để đổi đường, nhờ lời cảnh báo của thiên thần, để không đến với vua Hêrôđê và âm mưu quyền lực của ông. Mỗi kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi những con đường khác, bởi vì từ Ngài xuất hiện một sức mạnh tốt lành chữa lành trái tim và tách chúng ta khỏi sự ác. Có một năng động khôn ngoan giữa tính liên tục và sự mới mẻ. Đó là “trở về xứ mình” nhưng “bằng một lối khác”. Điều này chỉ ra rằng chính chúng ta phải thay đổi, phải biến đổi cách sống của chúng ta ngay cả trong môi trường thường ngày, thay đổi các tiêu chí đánh giá thực tại xung quanh chúng ta. Đây là sự khác biệt giữa Thiên Chúa thật và những ngẫu tượng, như tiền bạc, quyền lực, thành công ...; giữa Chúa và những kẻ hứa sẽ ban cho bạn những thần tượng này, như pháp sư, thầy bói, phù thủy. Sự khác biệt ở đây là các ngẫu tượng ràng buộc chúng ta, làm cho chúng ta trở thành những ngẫu tượng lệ thuộc và chúng ta bị chúng chiếm hữu. Thiên Chúa thật không giữ chúng ta và cũng không để mình bị chúng ta giữ: Ngài mở ra những con đường, những con mới và tự do, bởi vì Ngài là Cha luôn ở với chúng ta để làm cho chúng ta lớn lên. Nếu bạn gặp Đức Giêsu, nếu bạn có một cuộc gặp thiêng liêng với Giêsu, hãy nhớ rằng: phải trở về nơi cũ, nhưng bằng một con đường mới, bằng một cách thức mới. Đó là Thánh Thần ban Chúa Giêsu cho chúng ta và làm biến đổi con tim chúng ta. Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Hiển Linh ngày 06.01.2019:Hiển linh - sự tỏ mình ra của Chúa Hiển linh: từ này nói đến sự tỏ mình ra của Chúa, Đấng, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong bài đọc thứ hai (x. Ep 3:6), đã tỏ mình ra cho mọi dân tộc, và ba nhà Đạo sĩ là những người đại diện. Bằng cách này, chúng ta thấy vinh quang của một Thiên Chúa đã đến vì mọi người: mọi quốc gia, ngôn ngữ và dân tộc đều được Người đón nhận và yêu mến. Vinh quang của Chúa được biểu tượng bằng ánh sáng, vươn đến và chiếu soi tất cả. Nhưng nếu Thiên Chúa chúng ta tỏ mình ra cho tất cả mọi người, thì ngài cũng sẽ tiếp tục làm ngạc nhiên về cách Ngài tỏ mình ra. Tin Mừng kể về những xôn xao trong cung điện vua Hêrôđê, trong khi Chúa Giê-su lại tỏ mình ra như một vị vua: “Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2,2), Ba vị Đạo sĩ hỏi. Họ sẽ tìm thấy Ngài, nhưng không phải là nơi họ đã nghĩ: không phải trong điện ngà Giêrusalem, nhưng trong ngôi nhà đơn sơ ở Bêlem. Có một sự nghịch lý trong lễ Giáng Sinh khi Tin Mừng nói về kiểm tra dân số trên khắp cả thiên hạ thời hoàng đế Augustô và tổng trấn Quirinio (x. Lc 2,2). Nhưng không một nhà cầm quyền nào để ý rằng Đức Vua của lịch sử đã sinh ra trong thời của họ. Và rồi, khi Chúa Giêsu được 30 tuổi, Ngài lại tỏ mình công khai, Gioan Tẩy Giả đã đi trước, Tin Mừng đã giới thiệu Ngài một lần nữa trọng thể, và liệt kê tất cả mọi “cấp bậc” quyền lực cả đời lẫn đạo: Tiberio Cesare, Phongxio Pilato, Hêrôđê, Philippo, Lisania, thượng tế Anna và Caipha. Và ngài kết luận: “Lời Thiên Chúa phán với Gioan trong hoang địa” (Lc 3,2). Như thế, Lời Chúa không đến với bất cứ cấp bậc nào, nhưng đến với một người ẩn mình trong sa mạc. Quả là ngạc nhiên: Thiên Chúa không lên sân khấu của thế giới này để tỏ mình ra. Khi nghe danh sách những người nổi tiếng, người ta có thể dễ dàng có khuynh hướng “quay ánh đèn” về phía họ. Chúng ta có thể nghĩ rằng: Có lẽ sẽ hay hơn nếu ngôi sao của Đức Giê-su hiện ra ở Roma trên ngọn đồi Palatino, nơi hoàng đế Augusto đã ngự triều cai quản thế giới; khi ấy toàn đế quốc lập tức trở thành Kitô giáo. Hay nếu ngôi sao chiếu trên cung điện vua Hêrôđê, thì ông ấy có thể làm điều tốt chứ không làm điều xấu. Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa lại không đến với ai toả sáng bằng ánh sáng của riêng họ. Thiên Chúa đề nghị nhưng không áp đặt; chiếu sáng nhưng không làm chói mắt. Chúng ta luôn có một cám dỗ lớn là đem so sánh ánh sáng của Thiên Chúa với ánh sáng của thế gian. Đã bao lần chúng ta chạy theo quyến rũ lấp lánh của quyền lực và của sân khấu, lại thấy rằng mình phục vụ tốt cho Tin Mừng. Nhưng như thế chúng ta đã hướng ánh sáng vào nhầm chỗ, vì Thiên Chúa không ở đó. Ánh sáng của Ngài nhẹ nhàng chiếu giải tình yêu khiêm nhường. Rồi bao nhiêu lần chúng ta, như là Giáo Hội, đã toả sáng bằng chính ánh sáng của mình! Nhưng chúng ta không phải là mặt trời của nhân loại. Chúng ta là mặt trăng phản chiếu ánh sáng thật là Thiên Chúa. Giáo Hội là ánh trăng mầu nhiệm và Thiên Chúa là ánh sáng của trần gian (x. Ga 9,5). Chính Ngài chứ không phải chúng ta. Ánh sáng của Thiên Chúa đến với ai biết đón nhận. Tiên tri Isaia trong bài đọc một (x. Is 60,2) đã nhắc nhở chúng ta rằng ánh sáng của Thiên Chúa không ngăn chặn bóng tối và mây mù phủ lấp mặt đất, nhưng chiếu toả trên ai sẵn sàng đón nhận. Do đó, tiên tri lặp lại lời mời dành cho mỗi người: “Đứng lên, bừng sáng lên” (60,1). Hãy đứng dậy, nghĩa là thoát ra khỏi chỗ hiện tại của mình và sẵn sàng bước đi. Nếu không, sẽ vẫn giậm chân tại chỗ như các kinh sư tư vấn cho vua Hêrôđê, về điều họ đã biết, là Đấng Mêsia sinh ra ở đâu, nhưng không một bước di chuyển. Và rồi mỗi ngày, chúng ta cần mặc lấy Thiên Chúa là ánh sáng, cho đến khi Đức Giêsu trở thành trang phục hằng ngày của chúng ta. Nhưng để mặc lấy trang phục của Thiên Chúa, vốn đơn giản như ánh sáng, thì trước tiên cần cởi bỏ những trang phục hào hoa. Nếu không thì cũng giống vua Hêrôđê, dù thấy ánh sáng của Thiên Chúa nhưng vẫn thích ánh sáng trần thế của thành công và danh vọng. Ngược lại, như Ba vị Đạo sĩ, nhận ra lời tiên tri, họ đứng dậy để mặc lấy ánh sáng. Chỉ có họ nhìn thấy ngôi sao trên bầu trời: các kinh sư không nhìn thấy, Vua Hêrôđê không nhìn thấy và cũng chẳng có ai ở Giêrusalem nhìn thấy. Để tìm kiếm Đức Giêsu, phải đi theo một hành trình khác, con đường của Ngài, con đường yêu thương khiêm nhường. Và phải kiên trì theo con đường đó. Thật vậy, Tin Mừng hôm nay kết luận rằng Ba nhà Đạo sĩ, sau khi gặp Đức Giêsu, đã “đi con đường khác mà về xứ mình” (Mt 2,12). Một con đường khác với con đường của Hêrôđê. Một con đường khác để vào thế giới, giống như con đường của bao nhiêu người trong cảnh Giáng Sinh đã ở với Đức Giêsu: Đức Maria, thánh Giuse, các mục đồng. Cũng giống như các vị Đạo sĩ, họ rời bỏ nơi cư ngụ của mình, để trở thành những kẻ hành hương trên con đường của Thiên Chúa. Bởi vì chỉ có ai dám bỏ đi sự dính bén với thế gian này để bước đi thì mới có thể tìm thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa. Điều này đúng cả với chúng ta. Nếu chỉ biết nơi Chúa Giêsu sinh ra mà không đến nơi thì chưa đủ, giống các kinh sư thôi. Nếu chỉ biết Đức Giêsu mới sinh là ai mà không gặp Ngài thì không đủ. Khi nào nơi của ngài trở thành nơi của chúng ta, thời của ngài trở thành thời của chúng ta, con người của Ngài trở thành sự sống của chúng ta, thì khi ấy lời tiên tri ứng nghiệm nơi chúng ta. Và như thế, Giêsu sinh ra trong chúng ta và trở thành “Thiên Chúa hằng sống vì tôi”. Hôm nay, chúng ta được mời gọi theo gương các vị Đạo sĩ. Họ không bàn cãi, nhưng bước đi; họ không đứng lại nhìn, nhưng bước vào nhà của Giêsu; không đặt mình làm trung tâm, nhưng bái lạy Giêsu, vì Ngài mới là trung tâm; họ không cứng nhắc với kế hoạch của họ, nhưng sẵn sàng chọn đường khác để về. Bằng cử chỉ, họ diễn tả mối tương quan mật thiết với Chúa, một sự mở ra trọn vẹn với Ngài, một liên hệ toàn bộ với Ngài. Họ dùng ngôn ngữ tình yêu để liên hệ với Ngài, cùng một ngôn ngữ mà Giêsu con trẻ đã nói. Thật vậy, các vị Đạo sĩ đến với Chúa không phải để nhận, nhưng để cho. Chúng ta tự hỏi: Chúng ta đã mang đến cho Chúa Giêsu món quà nào trong ngày lễ Giáng Sinh của Ngài, hay chúng ta chỉ trao đổi quà cho nhau giữa chúng ta? Nếu chúng ta đã đến với Chúa bằng tay không, thì hôm nay chúng ta có thể bù lại được. Có thể thấy Tin Mừng kể một danh sách ngắn những món quà: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng nói lên điều giá trị nhất, để nhắc nhớ rằng vị Đạo sĩ đã đặt Thiên Chúa ở vị trí trên hết, để tôn thờ. Nhưng để làm được điều đó thì phải rút mình khỏi vị trí cao nhất đó và thấy mình cần được giúp đỡ, mình không tự đủ được. Rồi đến nhũ hương, biểu tượng của sự tương quan với Thiên Chúa, việc cầu nguyện, như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan (x. Tv 141,2). Nhưng, giống như hương trầm, để toả hương thì phải chịu đốt cháy; vì thế, việc cầu nguyện cũng “đốt cháy” chút thời gian, dành giờ cho Thiên Chúa. Cầu nguyện thật sự thì không phải chỉ bằng lời. Và rồi, mộc dược, được dùng cùng với tình yêu để liệm xác Đức Giêsu tháo xuống từ Thánh Giá (x. Ga 19,39). Chúa vui khi chúng ta chăm sóc những thân thể chịu nhiều đau khổ, những thân xác yếu đuối, những ai bị lùi lại đàng sau, những ai chỉ có thể nhận mà không thể đổi lại gì về vật chất. Thật quý trong mắt Thiên Chúa khi tỏ lòng thương xót đối với những người không có gì để đền đáp - một sự miễn phí, nhưng không! Sự miễn phí, nhưng không thật quý trong mắt Thiên Chúa. Trong thời gian gần kết thúc Mùa Giáng Sinh, chúng ta đừng để mất cơ hội làm một món quà đẹp cho Vị Vua của chúng ta, Ngài đến không trên sân khấu xa hoa của thế giới, nhưng trong sự nghèo mà sáng của Bêlem. Nếu chúng ta làm điều đó, thì ánh sáng của Ngài sẽ chiếu toả trên chúng ta. Nguồn: vaticannews.va/vi